Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Tây Sở Bá Vương Hạng Võ 6

Trang 6 trong tổng số 26

Chương 4 (A)
Những bước thăng trầm

Người mượn binh
Sau khi Hạng quân đánh bại Tần Gia, bèn tạm trú đóng tại Hồ Lăng cạnh sông Tứ Thủy, chuẩn bị chấn chỉnh đội ngũ xong thì sẽ tiếp tục cuộc tây chinh. Nhưng họ vừa mới dừng lại tại Hồ Lăng được hai ngày thì nhận được tin tức về tình hình địch cho biết: quân Tần do Chương Hàm chỉ huy đã đến huyện Lưu cách Hồ Lăng hơn tám chục dặm về hướng nam, và đang có ý đồ tiến lên phía bắc để tấn công Hồ Lăng.

anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Lúc bấy giờ khí thế của Chương Hàm đang lên cao, trong vòng ba tháng qua đội quân do các tù nhân ở núi Ly Sơn kết hợp với quân Tần ở Hàm Dương này đã liên tiếp giành được thắng lợi gần như không ai chống trả nổi, thể hiện một sức chiến đấu rất mạnh mẽ. Sỡ dĩ có tình hình đó là do các tù nhân sau khi được võ trang, thì Chương Hàm đã lên tiếng hứa hẹn với họ: nếu tác chiến thắng lợi thì sẽ xoá bỏ tất cả tội lỗi, cho trở về quê quán. Lời hứa đó tuy hoàn toàn là một sự lừa dối, nhưng đối với những tội phạm bị bắt xa nhà đã lâu, vẫn có một sức quyến rũ mạnh mẽ. Họ tích cực tham gia tác chiến và lúc nào cũng xông về phía trước, bất kể sống chết. Họ đã chém giết một cách tàn nhẫn những nghĩa quân và binh sĩ khởi nghĩa có cùng một số phận như họ. Họ có ảo tưởng một cách khờ dại là dùng máu của binh sĩ nghĩa quân để đổi lấy một hiện thực mù mờ.
Tất nhiên riêng họ cũng đổ máu. Trong số họ có không ít người đã vì chạy theo ảo ảnh do Chương Hàm hứa hẹn mà phải bỏ mạng nơi đất khách, thi thể trở thành món ăn của diều quạ và loài sâu bọ, linh hồn họ đành phải chịu cảnh dật dờ trên bước đường về quê hương. Nhưng ảo tưởng đó vẫn tiếp tục tác động tới những người còn sống, họ sẵn sàng bán mạng cho vương triều nhà Tần một cách dai dột, và đã trở thành công cụ của vương triều này. Chương Hàm đã xua đạo quân nói trên trước tiêu diệt quân của Châu Văn tại Mãnh Trì, rồi lại đánh bại quân của Điền Tạng tại Ngao Thương. Kế đó chúng thừa thắng tiến về phía đông, và đã chiến thắng tàn quân của Ngô Quảng tại phía ngoài thành Huỳnh Dương, mãi cho tới khi đánh chiếm được huyện Trần, nơi Trương Sở đặt chính quyền. Trong vòng ba tháng họ đã tiêu diệt được mười vạn quân của Trần Thắng. Các tướng lãnh quan trọng của nghĩa quân lớp thì chết trận, lớp thì tự sát, lớp thì bị giết. Ngoài ra, còn một số nhóm nghĩa quân nhỏ khác cũng bị họ nối tiếp đánh bại hoặc tiêu diệt.
Đứng trước thế lực to lớn của Chương Hàm, chú cháu họ Hạng cho rằng không thể ở yê tại Hồ Lăng chờ đợi quân Tần kéo tới tấn công, mà phải chủ động xuất kích. Sau khi hai người thương lượng xong, bèn phái bộ tướng cũ của Tần Gia là Chu Kê Thạch, và Dư Phán Quân dẫn quân xuất chiến. Thế nhưng, chiến sự không diễn tiến theo ý muốn. Dư Phán Quân bị chết trận, còn Chu Kê Thạch thì dẫn tàn quân chạy trở về Hồ Lăng. Hạng Võ hết sức tức giận, đem Chu Kê Thạch xử trảm, rồi muốn đích thân chỉ huy quân đi đánh nhau với Chương Hàm. Hạng Lương thấy thế ngăn lại, cho rằng nên tránh thế lực đang mạnh của hắn. Sau khi ông thuyết phục được Hạng Võ, liền dẫn quân đến Tiết Thành ở phía bắc.
Tiết Thành nguyên là vùng đất cũ của Tiết Hầu, nay trở thành Quận lỵ của quận Tiết thuộc vương triều nhà Tần, nằm về phía bắc Hồ Lăng ngoài 150 dặm. Hạng Lương có ý định tạm đóng quân tại nơi này để chờ thời cơ đánh địch. Quận thú của quận Tiết Thành đã bỏ chạy từ lúc nào, riêng binh lính trong quận một số bỏ trốn, một số còn lại thì gia nhập Hạng quân. Bá tánh ở Tiết Thành cũng có không ít người gia nhập nghĩa quân. Điều làm cho chú cháu họ Hạng cảm thấy phấn khởi nhất, là tại Tiết Thành họ đã tiếp nhận được một đạo nghĩa quân kéo tới gia nhập. Người thủ lĩnh của toán nghĩa quân này từ bạn trở thành thù với Hạng Võ, và đôi bên đã đọ sức với nhau đến hai năm chín tháng - đó là Lưu Bang.

Vì Lưu Bang là nhân vật quan trọng có liên quan tới những vấn đề chính trị, quân sự của Hạng Võ, cho nên chúng tôi cũng cần giới thiệu kỹ về ông ta.
Lưu Bang là người huyện Bái, chào đời năm 256 Tr. CN, trong một gia đình nông dân bình thường. Ông có tiểu danh là Lưu Quý, là người con thứ ba trong gia đình. Trong sách sử có miêu tả hình dạng của ông như sau: mũi cao, mặt rồng, râu đẹp. Ông là người rất nhân hậu, thích bố thí, tánh tình rộng rãi, thành thật một cách kỳ lạ, không biết giấu giếm. Ông cũng giỏi nhận xét tình hình, tính toán kỹ lưỡng và khi làm việc gì mà chưa đoạt được mục đích thì không bao giờ chịu thôi, dù có thất bại cũng kiên cường đứng lên tiếp tục làm những công việc còn dở dang. Về mặt này thì hoàn toàn trái ngược với Hạng Võ. Hạng Võ tuy dũng cảm thiện chiến nhưng không giỏi nắm bắt tình hình thời thế, thiếu kiên trì một cách triệt để, riêng về mặt độ lượng cũng không rộng rãi như Lưu Bang. Tánh tình của hai người rất trái ngược nhau và đã có ảnh hưởng rất lớn trong sự thành bại của cả cuộc đời.
Một mặt khác, Lưu Bang còn là người tham tài háo sắc, nhiều mưu mô có khi còn thể hiện một tác phong vô lại, thô tục thiếu lễ độ. Trong thời tuổi trẻ ông ta chỉ biết rong chơi, không làm lụng chi cả. Ông ta thưởng uống rượu chịu ở những quán rượu trong vùng, sau đó quỵt nợ luôn. Đến tuổi tráng niên ông làm Đinh trưởng tại Tứ Thủy, luôn bị bọn quan quyền ở địa phương hiếp đáp. Có một lần nọ nguyên Huyện lệnh làm lễ mừng thọ, trong túi Lưu Bang không có một đồng xu, thế mà lại dám tuyên bố chúc mừng mười vạn quan tiền, và lên ngồi ở ghế trên một cách ngang nhiên, không biết e thẹn, cũng may là tại buổi tiệc này ông ta được người bạn của Huyện lệnh là Lữ Công để ý. Vì Lữ Công là người biết xem tướng, trông thấy tướng mạo của Lưu Bang cao quý, nên bằng lòng gả con gái của mình là Lữ Trí cho ông ta.
Lưu Bang thời trẻ tuổi từng đến Hàm Dương, được dịp chính mắt trông thấy sự uy nghi của Tần Thủy Hoàng, nên tỏ ra rất sùng bái và ngưỡng mộ, ông nói:
- Người đại trượng phu thì phải làm cho được như vậy!
Lưu Bang khởi nghĩa vào tháng 9 năm 209 Tr. CN, cùng một lúc với Hạng Lương và Hạng Võ. Thời bấy giờ ông ta đang làm Đình trưởng tại Tứ Thủy, lãnh trách nhiệm áp giải một đoàn tù tội và phu dịch đi đến núi Ly Sơn để làm khổ sai, nhưng mới đi được nửa đường thì có nhiều người đã lén bỏ trốn. Lưu Bang nghĩ bụng: nếu tiếp tục như vậy thì khi tới núi Ly Sơn, bọn phu dịch và tù tội sẽ trốn hết sạch, chẳng phải quan phủ sẽ bắt tội ta ư? Thế là, khi đến vùng núi rừng nằm ở phía tây ấp Phong, ông quyết định mở trói thả hết tất cả những tù tội và phu dịch, còn riêng ông thì dẫn theo hơn mười thiếu niên khoẻ mạnh, rút vào trong núi Mang và núi Đăng để lẩn trốn, chờ thời cơ đứng lên khởi nghĩa.
Sau khi Trần Thắng và Ngô Quảng đứng lên khởi nghĩa, các quận huyện đều đua nhau hưởng ứng. Huyện lệnh của huyện Bái biết mình không thể tự bảo toàn được mình, nên chuẩn bị chờ cơ hội phát động khởi nghĩa. Các quan viên trong huyện như chủ lại Tiêu Hà và giám ngục Tào Sâm bèn nói riêng với Huyện lệnh:
- Ngài là quan lại của triều đình nhà Tần, nay đứng lên khởi nghĩa chống Tần, dẫn dắt con em trong huyện Bái, e rằng có người không chịu theo, chi bằng cho gọi mấy trăm người bỏ trốn từ bấy lâu nay trở về, để họ chỉ huy dân chúng ở trong huyện thì dân chúng sẽ không dám trái lệnh họ nữa.

Huyện lệnh cho là phải. Tiêu Hà bèn nói tới những người bỏ trốn trong đó có Lưu Bang. Giữa Tiêu Hà và Lưu Bang có mối quan hệ tương đối mật thiết. Khi Lưu Bang còn là một người dana thường, Tiêu Hà đã dựa vào chức vụ quyền lực của mình để che chở ông ta. Đến khi Lưu Bang làm Đình trưởng, Tiêu Hà vẫn nhiều phen giúp đỡ cho ông ta.
Huyện lệnh đồng ý cho đi gọi Lưu Bang và phái Phàn Khoái là người huyện Bái đi làm nhiệm vụ đó. Phàn Khoái là người chuyên mổ chó và bán thịt chó để sinh nhai, từng chạy trốn với Lưu Bang ở vùng rừng núi Mang Sơn và Đăng Sơn. Lưu Bang liền dẫn hơn một trăm người rời khỏi rừng núi theo Phàn Khoái trở về huyện Bái. Nhưng lúc vào thành thì gây ra chuyện rắc rối, nên xuống lệnh đóng cửa thành không cho Lưu Bang vào. Ngoài ra, viên Huyện lệnh này còn dọa sẽ giết Tiêu Hà và Tào Sâm. Hai người quá sợ, bèn lén trèo tường thành trốn ra ngoài, dựa vào Lưu Bang. Lưu Bang sau khi biết viên Huyện lệnh đã thay đổi ý định, bèn viết một phong thư rồi dùng tên bắn vào trong thành, trong thư nói: "Thiên hạ chịu khổ vì cách cai trị tàn bạo của vương triều nhà Tần đã lâu, cho nên ngày nay các chư hầu đều đứng lên khởi nghĩa. Ngày diệt vong của vương triều nhà Tần sẽ không còn xa, các phụ lão ở trong thành nếu giúp cho Huyện lệnh cố thủ hành trì, một khi thành bị hạ sẽ khó tránh khỏi cái họa bị tàn sát. Vậy chi bằng hãy đứng lên giết chết Huyện lệnh, để tự bầu ra lãnh tụ khác, hưởng ứng với các chư hầu, thì gia đình mới có thể được bảo toàn."
Người trong thành đọc qua bức thư, liền dẫn tất cả con em đi bắt giết Huyện lệnh, mở cửa đón nhóm người của Lưu Bang vào thành, đồng thời, đề cử Lưu Bang làm Huyện lệnh của huyện Bái. Lưu Bang từ chối, cho rằng mình là người năng lực yếu kém khó làm tròn trách nhiệm, nên chủ trương đề cử một người khác. Tiêu Hà, Tào Sâm đều là quan văn, rất nhút nhát, sợ mọi việc không thành thì nguy hiểm tới gia đình, nên cả hai đề cử Lưu Bang. Đám đông trong thành cũng nói rằng bình nhật họ đã nghe rất nhiều chuyện lạ có liên quan tới Lưu Bang, vậy mai sau Lưu Bang chắc chắn sẽ trở thành người đại quý. Sau khi họ tiến hành bói toán, cũng biết Lưu Bang làm thủ lãnh là điều tốt nhất. Lưu Bang không còn chối từ được, nhất là thấy đám đông không ai dám đứng ra giữ lấy trọng trách đó, nên ông mới bằng lòng. Thế là ông được bầu làm Bái Công.
Sau khi đã bầu xong Bái Công, mọi người liền tiến hành cúng tế Hoàng đế, và Si Vưu tại huyện đường, rồi dựng một lá cờ đỏ rất to, tuyên bố chính thức khởi nghĩa.

Sở dĩ Lưu Bang lấy màu đỏ làm cở là có nguyên nhân riêng. Thì ra, Lưu Bang cũng giống như Tần Thủy Hoàng là người sùng bái thuyết vận nhành của Ngũ Đức, cho rằng sự thay đổi vương triều là kết quả của sự tương sinh tương khắc của ngũ hành gồm kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Vương triều nhà Tần là Thủy Đức, nên đề cao màu đen, và vương triều kế tiếp thay thế cho nhà Tần sẽ là một vương triều Hỏa Đức, đề cao màu đỏ. Ngoài ra, ông ta còn được những người chạy theo ông ta lan truyền một câu chuyện mang tính chất huyền bí. Đó là lúc ông ta chạy trốn tại núi Đăng Sơn, trên đường đi có gặp một con rắn to, mọi người rất sợ hãi, Lưu Bang đang lúc say rượu, liền huơ gươm chém con rắn đứt ra làm hai khúc. Sau khi tiếp tục đi mấy dặm đường, Lưu Bang vì quá say không thể đi tiếp, bèn nằm xuống để nghỉ ngơi. Những người đi ở phía sau khi tới chỗ con rắn bị chém đứt làm đôi vào lúc giữa đêm trông thấy một mụ già đang ngồi khóc. Số người này hỏi bà ta tại sao khóc, thì mụ già đó cho biết có người đã giết chết con trai của bà. Con trai của bà là con của Bạch Đế, biến thành rắn nằm ngang đường đi và đã bị con trai của Xích Đế giết chết. Nói đoạn, mụ già bỗng biến mất. Số người này đem sự kiện trên nói lại cho Lưu Bang nghe, ông ta lấy làm đắc ý. tự tin mình là người phi thường, và tự cho mình là con trai của Xích Đế.
Câu chuyện trên mang đậm sắc thái mê tín, rất có thể do người thời bấy giờ vì chịu ảnh hưởng sự mê tín nên đã bịa đặt ra, mà cũng có thể do bản thân Lưu Bang bịa ra với mục đích tạo cho mình một lớp vỏ huyền bí, dùng để hiệu triệu quần chúng phát động khởi nghĩa.
Việc lan truyền câu chuyện "con trai của Xích Đế" rất có tác dụng trong thời đó, hơn nữa, câu chuyện này lại được Tiêu Hà Tào Sâm, Phàn Khoái... chia nhau đi lan truyền, làm cho con em tại Bái Trung đua nhau tham gia vào đội ngũ của quân khởi nghĩa, khiến chẳng mấy chốc số lượng của đội ngũ này đã tăng lên đến hai ba nghìn người. Trong vòng tháng 10 năm 109 Tr. CN, Lưu Bang dẫn nghĩa quân của mình đánh chiếm Hồ Lăng và Phương Dữ, rồi trở về giữ Phong Ấp. Lúc bấy giờ viên giám quân của quận Tứ Thuỷ đã xua quân tới bao vây Phong Ấp. Lưu Bang chỉ huy nghĩa quân đánh bại được quân đội của viên Giám quân Tứ Thủy. Sau đó Lưu Bang sai bộ hạ là Ung Xi cầm quân đóng giữ đất Phong, còn bản thân ông ta thì tiếp tục dẫn quân đi đánh đất Tiết, và đã đánh bại quân Tần, riêng viên Quận thú thì bị Tả tư mã Tào Vô Thương của Lưu Bang giết chết.
Trong thời điểm đó nghĩa quân của Trần Thắng đang bị thất thế. Tháng 12 huyện Trần bị đánh chiếm, Trần Thắng bị giết. Trước tình hình đó nghĩa quân của Lưu Bang cũng chịu ảnh hưởng lây. Sau khi Lưu Bang giết chết viên giám quân của Quận thú Tứ Thủy, thì bị Châu Thị là một tướng phản lại Trần Thắng mở cuộc tấn công. Châu Thị phái người đến dụ hàng Ung Xỉ đang đóng giữ Phong Âp, hứa hẹn sẽ phong Hầu cho ông ta. Ung Xỉ nguyên là người không muốn theo Lưu Bang, nay thấy được dụ hàng, liền vui mừng bằng lòng ngay. Lưu Bang hay tin, liền dẫn quân đến đánh nhưng không thể đánh chiếm được Phong Ấp. Vì lẽ Lưu Bang bị bệnh nên phải rút quân trở về đất Bái. Ông ta hết sức oán hận sự phản bội của Ung Xỉ, lúc nào cũng quyết tâm đánh chiếm Phong Ấp. Cho nên khi biết Tần Gia đã đưa Cảnh Câu lên làm Sở vương và đang đóng tại Lưu thành, liền dẫn binh đến đó nhằm mục đích nương tựa vào Cảnh Câu, đã được Cảnh Câu ra quân hiệp trợ cho việc tấn công Phong Ấp, nhưng sau một thời gian xoay xở mà vẫn không có kết quả gì. Khi Hạng Lương đánh bại Tần Gia và sáp nhập quân đội của ông ta và nghĩa quân của mình, thì Lưu Bang lại nghe nói Hạng Lương đang đóng tại Tiết Thành bèn dẫn theo hơn một trăm lính kỵ, đến xin nương tựa vào Hạng Lương, muốn mượn một phần binh lực của Hạng Lương để tiếp tục đánh chiếm Phong Ấp, là nơi mà ông ta xem như cái gai trước mắt của mình.

Người mượn quân này vào một ngày tháng 6 đã đến Tiết Thành. Hạng Lương tiếp Lưu Bang trong Quận đường, và đã giới thiệu người cháu của mình là Hạng Võ cho Lưu Bang biết. Năm đó Hạng Võ 25 tuổi, là một thanh niên vạm vỡ, hào hùng, còn Lưu Bang thì đã là người trung niên 49 tuổi, tức có số tuổi đời gần gấp đôi Hạng Võ. Cả hai người này trước đây từng được biết nhau, nhưng đều thông qua những lời đồn đại, mãi tới ngày nay mới gặp mặt lần đầu tiên, nên cả hai đều rất vui mừng. Bốn mắt của họ nhìn nhau để nhận xét, tìm hiểu nhau. Lưu Bang dựa vào trí thông minh cũng như ánh mắt nhạy bén cố dò xét một cách tỉ mỉ về Hạng Võ nhằm phán đoán tánh tình tài năng khí chất của Hạng Võ như đang đọc một pho sách quan trọng. Ông ta suy nghĩ: người thanh niên trước mặt mình là một võ phu dũng mãnh, tràn ngập sức sống, vậy việc tiêu diệt vương triều nhà Tần để giành thiên hạ, thì người này sẽ là người khó có ai sánh kịp, nhất là đội ngũ của ông ta lại lớn mạnh, nên niềm hy vọng đó càng được củng cố thêm. Lưu Bang cảm thấy mình đang găp cảnh khốn đốn, nếu liên hiệp với chú cháu Hạng Lương và Hạng Võ thì mới có tương lai. Ông ta nghĩ bụng: mình phải lợi dụng sức mạnh của họ để tranh thủ con đường sống cho mình.
Lưu Bang cũng từ nét mặt của Hạng Võ phát hiện được tánh chất ngây thơ và đơn thuần của một người thanh niên mới lớn lên, cho nên đối với việc nương tựa vào họ ông cảm thấy hết sức hài lòng. Ông đang cần một người đồng hành như thế. Cho nên Lưu Bang không quan tâm đến sự chênh lệch về tuổi tác giữa mình với Hạng Võ, xưng hô nhau bằng anh em, hết lời ca ngợi tài năng của Hạng Võ và cũng không quên đem những lời đồn đại về Hạng Võ được nghe trước đây kể lại cho Hạng Võ nghe.
Sự quan sát của Hạng Võ đối với Lưu Bang thì không được tinh tế như vậy. Ấn tượng mà Lưu Bang gieo vào lòng ông là tương đối tầm thường. Từ nhãn quan của con em một gia đình quý tộc, Hạng Võ cảm thấy Lưu Bang có vẻ quê mùa, hoàn toàn không có một tí phong cách nào của người thế gia đại tộc. Hạng Võ cảm thấy lời ăn tiếng nói của Lưu Bang có sự thô lỗ qua một số ngôn ngữ mang tính chất bất nhã của dân phố chợ. Hạng Võ tự cho mình không phải là người tầm thường, và cũng luôn tự hào ở gia thế từng một thời hiển hách của mình. Cho nên, đối với Lưu Bang, Hạng Võ luôn có thái độ cao ngạo, bề trên. Đặc biệt, là hiện giờ Lưu Bang tới đây với mục đích để cầu viện, cho nên Hạng Võ lại càng tỏ ra là người có ưu thế hơn.

Nhưng, Hạng Võ lại là người rất dễ đồng tình với người khác. Ông ta cảm thấy Lưu Bang có cùng một chí hướng diệt Tần giống như mình. Nay gặp hoàn cảnh khó khăn, vậy giúp đỡ cho ông ta là cái lẽ đương nhiên. Hơn nữa, việc mượn quân của Lưu Bang là để thảo phạt Ung Xỉ, một tên phản nghịch, loại người mà Hạng Võ hết sức căm ghét, cho nên Hạng Võ sẵn sàng ủng hộ Lưu Bang. Ông ta bèn nói riêng với người chú của mình: "Ung Xỉ là phường vong ơn bội nghĩa, trời chẳng dung tha, vậy phải kiên quyết diệt trừ". Ông chủ trương cho Lưu Bang mượn một số quân khá lớn, để mau chóng đánh chiếm lại Phong Ấp.
Hạng Lương thấy Lưu Bang thật lòng đến nương tựa vào mình và cũng thật lòng muốn hợp lực để đánh Tần, tỏ ra rất hài lòng. Ông liền cho Lưu Bang mượn viên tướng và năm nghìn binh sĩ để ông có thể đánh chiếm lại Phong Ấp.
Lưu Bang hết sức cảm kích, đa tạ rối rít. Chủ cháu họ Hạng cũng nhiệt tình chúc Lưu Bang mau chóng giành được thắng lợi. Ngày tiễn hành có một bầu không khí hết sức nhiệt liệt, tình cảm giữa đôi bên chẳng khác gì anh em. Thế nhưng, ngay giờ phút đó, Hạng Võ không làm sao có thể nghĩ được rằng, người anh em bao giờ cũng tươi cười này, trong tương lại sẽ trở thành kẻ thù không đội trời chung với mình!
Chương 4 (B)
Người vương tôn chăn dê

Lưu Bang thu hồi được Phong Ấp lần này thì khác hẳn ngày trước, Hạng Lương sẵn lòng giúp đỡ cho ông ta mười tướng lãnh và năm nghìn tinh binh là một điều rất may mắn. Người mượn binh này đã trổ thần oai dưới thành Phong Ấp, lên án tên phản nghịch và hiệu triệu các tướng sĩ hãy ra tay trừng trị hắn. Chính vì vậy, các tướng sĩ ai nấy đều sôi nổi hăng hái, sẵn sàng liều chết để chiến đấu. Sau một trận giao phong nhỏ, họ đã đáng chiếm được Phong ấp, khiến Ung Xỉ phải nhân đêm tối bỏ trốn, một mình một ngựa lưu vong sang đất Nguỵ.
Cùng một lúc với việc Lưu Bang chiếm lại Phong Ấp, Hạng Lương phái Hạng Võ dẫn một cánh nghĩa quân tiến đánh Tương Thành. Tương thành thuộc quận Dĩnh Xuyên, còn Phong Ấp thuộc quận Tứ Thủy, một nơi nằm về hướng tây, một nơi nằm về hướng đông, trở thành hai chiến trường hỗ trợ cho nhau. Nhưng, hai chiến trường này không hoàn toàn giống nhau, vì ở Tương Thành có nhiều khó khăn hơn ở Phong Ấp. Điều đó là do Huyện lệnh Tương thành là một quan viên ngoan cố, trung thành với vương triều nhà Tần. Ông ta xem nghĩa quân là một bọn đại nghịch vô đạo, sẵn sàng phơi gan trải mặt để chiến đấu cho nhà Tần. Khi ông ta hay tin Hạng quân kéo xuống phía nam để tấn công, ngay đêm đó đã tập hợp tất cả các quan viên dưới tay lại để bàn bạc đối sách, và cùng thể sống chết tử thủ ngôi thành. Binh mã trong toàn thành nhanh chóng tập kết lại rồi chia nhau tới giữ từng cửa thành. Ông ta dùng phương pháp trọng thưởng để khuyến khích binh sĩ liều chết chiến đấu, lại dùng pháp luật nghiêm ngặt để trừng trị những binh sĩ nhu nhược không dám chiến đấu. Một binh sĩ vì quá sợ sự dũng cảm của Hạng Võ nên tìm cớ lánh mặt đi nơi khác, sau khi bắt được trở về thì viên Huyện lệnh này đã đích thân ra lệnh hình phạt bằng cách xé xác để thị chúng. Hình phạt cực kỳ tàn bạo đó đã xé thân xác người này ra từng mảnh. Tình trạng bi thảm của một đào binh đã răn đe đối với toàn bộ binh sĩ. Trong khi đó viên Huyện lệnh còn hô hào các binh sĩ dưới tay phải tuyên thệ cùng sống chết với ngôi thành.

Trước tình hình đó, bầu không khí trong ngôi thành trở nên hết sức nặng nề, vắng vẻ. Những đường phố phồn hoa huyên náo trước đây nay trở thành một nơi tiêu điều vắng lặng. Tất cả thanh niên khoẻ mạnh đều bị trưng dụng đi giữ thành. Trên đầu thành chất từng đống gỗ đá, gần như mỗi một khoảng trống trên ụ thành đều có binh sĩ và bá tánh cùng canh giữ. Trong nhất thời Tương thành đã được phòng thủ kiên cố, giáo gươm san sát như rừng, trông chẳng khác nào một con thú dữ đang bị nhốt trong rọ nhe ranh, múa vuốt, liều chết chống trả lần cuối cùng.
Tình hình đó vượt ra ngoài sức tưởng tượng của Hạng Võ. Suốt sáu tháng khởi binh, Hạng Võ từ việc bình định Giang Đông cho tới việc vượt sông tiến về phía tây, đánh chiếm đất đai thành trì, đi tới đâu là thắng tới đó, gần như chưa bao giờ gặp phải một sức chống trả ngoan cường. Cho nên tình hình tử thủ của Tương thành đã làm cho Hạng Võ hết sức tức giận. Ông thề trong vòng ba ngày sẽ đạp bằng Tương thành. Ông bố trí nghĩa quân của mình đóng dưới chân thành để cắt đứt tất cả những con đường giao thông từ ngoài vào thành, rồi phá sập hết những cây cầu trên đường đi, tiến hành bao vây Tương thành một cách chặt chẽ. Sau đó, ông phái một trăm tinh binh mở cuộc tấn công thẳng vào cửa thành. Nhưng quân cố thủ Tương thành đã dựa vào những chiếc nỏ bắn đá cũng như dựa vào gỗ đá trên thành từ trên cao ném xuống đẩy lui từng đợt tấn công. Nghĩa quân dù mấy phen tiến sát cửa thành vẫn bị đánh bật trở ra.
Thấy Tương thành cố thủ quá chặt chẽ, Hạng Võ liền chấp thuận một số kiến nghị sử dụng các loại công cụ chuyên dùng để tấn công thành. Buổi tối ngày hôm đó, trước tiên Hạng Võ phái ba chục binh sĩ lén bò vào sát chân thành, rồi dùng cách đào hang để lòn xuống phía dưới chân thành. Trên đầu cái hang đó chính là nên của chân thành. Sau khi đào hang xong họ dùng những khúc gỗ để chống đỡ rồi chuyển rất nhiều củi khô vào dưới hang. Trước khi binh sĩ rút lui, họ châm lửa đốt số củi khô đó để cho lửa bắt cháy sang những chiếc cột chống đỡ chân thành. Cùng một lúc đó, Hạng Võ phái người sử dụng loại máy ném đá để ném từng khối đá to vào trong thành, nhằm phân tán binh lực của quân giữ thành. Số quân giữ thành chỉ chú ý đối phó với những chiếc máy ném đá ở bên ngoài, hoàn toàn không để ý chi tới ngọn lửa đang bốc cháy ở dưới chân thành ngày càng to. Một lúc sau mọi người nghe một tiếng "ầm", tức thì tường thành nơi bị lửa đốt đã bị sụp đổ, lộ ra một khoảng trống to. Hạng Võ không để mất thời cơ, chỉ huy binh sĩ xông ngay vào trong thành. Quân giữ thành rối loạn cả lên, không còn nghe theo lệnh chỉ huy. Hạng Võ dẫn binh sĩ chém giết thẳng tay, khiến quân giữ thành tử thương vô số. Đến khi trời sáng thì ngôi thành kiên cố này đã hoàn toàn mất hết khả năng chiến đấu, bọn tàn quân đua nhau đầu hàng. Riêng tên Huyện lệnh biết tính mệnh của mình khó bảo toàn, đã tự sát. Nhưng, lòng căm hận của Hạng Võ vẫn chưa nguôi, ông để cho tất cả binh sĩ mặc tình chém giết, làm cho khắp mặt đất trong ngôi thành xác chết nằm la liệt, máu chảy thành sông. Đối với những binh sĩ đầu hàng Hạng Võ cũng không tha, đào hố chôn sống tất cả.
Tương thành trở thành một ngôi thành chết. Hạng Võ với tư thế là một kẻ chiến thắng kéo quân trở về báo cáo tình hình trước Hạng Lương.
Tương thành bị đánh chiếm đã làm cho các quận huyện khác đều khiếp sợ. Nghĩa quân thừa thế mở nhiều cuộc tấn công và đã liên tiếp chiếm được mấy thành lân cận. Lưu Bang sau khi chiếm được Phong Ấp cũng bắt đầu mở những cuộc tấn công mới. Đến đây thì nghĩa quân lại khôi phục được thanh thế như xưa.

Thế nhưng, với tư cách là một vị chủ soái, Hạng Lương lúc bấy giờ cảm thấy không an tâm. Vì ông đã biết tin mà trước đây ông vẫn còn hoài nghi: Trần vương đã chết, nghĩa quân của Trần vương đã bị Chương Hàm là tướng nhà Tần tiêu diệt. Điều đó đối với Hạng Lương là một sự đả kích không phải nhỏ. Trong thâm tâm của ông, Trần vương là lãnh tụ của nghĩa quân, còn Trương Sở là lá cờ của nghĩa quân, vậy với chức vụ Thượng Trụ Quốc do Trần vương phong cho, bảy vạn binh sĩ dưới tay ông trên danh nghĩa phải là thuộc hạ của Trần vương. Nay Trần vương đã chết, khiến cho các cánh nghĩa quân đã mất thủ lĩnh, thiên binh vạn mã đã mất chủ soái. Lời tục thường nói, người không đầu thì không đi, chim không đầu thì không bay, nghĩa quân không có thủ lĩnh thì không thể hoàn thành được sự nghiệp chống Tần. Vị Thượng Trụ Quốc này cảm thấy hết sức đau đớn trước tin Trần vương đã chết. Ông ý thức được đó là tình hình nghiêm trọng. Để tránh khỏi sự hỗn loạn có ảnh hưởng đến sĩ khí của nghĩa quân, ông quyết định triệu tập các tướng lãnh đến Tiết Thành để mở cuộc bàn bạc về vấn đề tôn vương. Lưu Bang cũng hưởng ứng lời hiệu triệu đó đến dự.
Hội nghị Tiết Thành là một cuộc hội nghị quan trọng đầu tiên sau khi nghĩa quân của Trần Thắng bị thất bại. Nghị trình duy nhất của cuộc hội nghị này là: bầu chọn lãnh tụ cho nghĩa quân chống Tần.

Do chịu ảnh hưởng thiên kiến truyền thống của xã hội dòng dõi thế gia quý tộc mới có thể đứng ra làm lãnh tụ khởi nghĩa, cho nên có rất nhiều người trong nghĩa quân cho rằng việc chống Tần cần phải dựa vào các Danh Tộc. Đối với họ từ xưa tới nay nếu là người không được phong quốc và có thái ấp thì không thể nào trở thành một vị vương. Ba đời Hạ, Thương, Châu đều lấy chư hầu để thay cho Thiên Tử. Khi Trần Thắng khởi nghĩa cũng phải dùng Phù Tô, Hạng Yến để hiệu triệu nhân dân, còn Trương Sở là tôn chỉ nhằm phục hưng nước Sở. Nay Trần vương đã chết, thì cần phải đề cử một người xuất thân từ danh tộc lên làm vương, tiếp tục sự nghiệp phục hưng nước Sở. Trong số những người có ý kiến như vậy thì Trần Anh là người tỏ ra hăng hái nhất. Ông dựa vào kiến thức uyên bác của mình để trích dẫn những câu chuyện cổ về việc phong hầu, phong quốc vào đầu thời nhà Châu: "Thời nhà Châu, các vương được phong đều là anh em, chú cháu trong vương thất hoặc các quý tộc cùng họ cũng như các ngoại thích khác họ và các nguyên lão trọng thần chứ chưa bao giờ có một người bình dân mà được phong vương. Vì lẽ cần phải sử dụng các vương cùng họ và các vương khác họ nói trên để làm rào giậu, thì mới có thể củng cố được vương triều nhà Châu. Nay chúng ta muốn hoàn thành sự nghiệp lớn thì cũng cần phải đề cử một vị xuất thân từ dòng dõi quý tộc đứng ra làm vương."
Lưu Bang xuất thân bình dân, không có học hành gì, nên không biết những mẫu chuyện xưa đó, nhưng nhớ lại khi khởi nghĩa ở huyệnn Bái, Tiêu Hà, Tào Sâm đều không dám đứng ra làm thủ lãnh, nên giờ đây cũng thấy lời nói của Trần Anh không phải là không có lý. Riêng Hạng Lương thì tư tưởng "không phải là người làm quan to thì không thể làm vương" đã ăn sâu vào tâm khảm của ông, tất nhiên ông luôn chủ trương phải là người thuộc danh gia vọng tộc thì mới có thể đứng ra làm vương. Thế là, với vấn đề đó, ý kiến của các tướng đã được thống nhất nhanh chóng.
Tiếp theo sau là vấn đề đưa ai lên làm vương? Trong khi mọi người đang bàn bạc thì có một cụ già vào xin ra mắt. Cụ già này tuổi trên dưới bảy mươi, nhưng tinh thần hãy còn sáng suốt, đôi mắt sáng ngời, râu bạc phất phơ, xem có vẻ là người không tầm thường. Ông ta có tên gọi là Phạm Tăng, người Cư Sào, bình nhật sống trong nhà rất thích tìm hiểu những mưu kế hay ho trên đời, cho nên ngày hôm nay ông tới đây để trình bày ý kiến của mình với Hạng Lương.
Sau khi thông báo họ tên, Hạng Lương dùng một giọng nói ôn hòa hỏi:
- Lão trượng từ xa tới đây chắc là có cao kiến để chỉ giáo, vậy xin lão trượng hãy nói rõ.
Phạm Tăng đi thẳng vào vấn đề mà không cần quanh co che giấu:
- Tăng tôi nay đã già, đáng lý không đủ tư cách để nghị bàn chuyện lớn được, nhưng vì nghe tin tướng quân muốn đề cử một tân vương, nên mạo muội đến đây để nói rõ ý kiến của mình. Tôi cho rằng sỡ dĩ Trần Vương thất bại, tất nhiên là do những trận đánh nhau bất lợi mà ra, nhưng việc ông ấy không đề cử một hậu duệ của Sở vương lên làm Vương cũng là một nguyên nhân quan trọng. Trần Vương không phải là người vọng tộc, vậy đâu thể xưng vương được. Những người làm vương tự cổ chí kim, tất cả đều là vọng tộc, đó là ý trời mà cũng là lòng dân muốn vậy. Trước kia, khi Tần tiêu diệt sáu nước, thì nước Sở là một quốc gia vô tội nhất. Nước Sở từ khi Sở vương bị gạt đi vào nước Tần rồi không trở về nước Sở nữa, thì người Sở không ai là không hoài niệm Sở Hoài Vương, mãi cho tới nay mà vẫn còn có người nhớ tới nhà vua của mình. Tôi nghe nói tại nước Sở có một ẩn sĩ tên gọi Nam Công từng nói một câu như thế này: "Sở tuy tam hộ, vong Tần tất Sở" (nước Sở tuy chỉ có ba đại tộc, nhưng chính là nước sẽ tiêu diệt vương triều Tần), rõ ràng là rất có lý. Sự thù hằn của người Sở đối với nước Tần là hết sức gay gắt, bất luận trong một hoàn cảnh nào vẫn luôn luôn tìm cách rửa mối hận thù đó. Ảnh hưởng của Sở Vương đối với người Sở là hết sức to lớn. Lúc tướng quân khởi nghĩa tại Giang Đông, tướng sĩ của nước Sở đều đứng lên hưởng ứng, vì tướng quân là hậu duệ của tướng Sở, nên họ tin tưởng rằng tướng quân sau này sẽ khôi phục lại nước Sở. Hiện nay tất cả mọi người đều ngưỡng mộ tướng quana, vậy tại sao tướng quân không quả quyết mà hành sự?"

Lời nói của Phạm Tăng đánh đúng vào tâm lý của Hạng Lương. Ông cảm kích sự quan tâm của Phạm Tăng đối với sự nghiệp chống Tần và không ngại đường xa tới đây đề trình bày ý kiến. Hạng Lương liền thi lễ cảm tạ Phạm Tăng, đồng thời có lời tìm hiểu về hậu duệ của vua Sở hiện nay còn lưu lạc ở đâu. Phạm Tăng vuốt nhẹ hàm râu, suy nghĩ giây lát rồi đáp:
- Nghe đâu người cháu của Sở Hoài Vương tên gọi là Tâm đang lưu lạc trong dân gian, đi chăn dê cho người ta, vậy tại sao tướng quân không cho đi mời người đó về?
Hạng Lương cho là phải, liền phái người đi khắp mọi nơi để tìm kiếm và quả nhiên phát hiện vương tôn đang chăn dê cho người ta ở một làng quê hẻo lánh. Lúc bấy giờ vị vương tông này hoàn toàn không còn phong thái của một người quý tộc trong vương thất, mà đã trở thành một người chăn dê thật sự. Ông ta ăn mặc lam lũ, gầy còm do thiếu ăn, tay cầm một ngọn roi, vai khoác một túi vải rách, đứng giữa bầy dê trông thật xơ xác. Người chủ bầy dê thỉnh thoảng còn la rầy trách mắng, tình cảnh đó quả là đáng thương. Khi người chủ bầy dê được biết người mình thuê chăn dê chính là cháu của Sở Vương, thì không khỏi kinh hoàng thất sắc, vội vàng cúi lạy liên tục và không ngớt lời xin tha tội. Người vương tôn chăn dê vẫn đứng thản nhiên không có thái độ gì, mà cũng không quở trách người chủ của mình. Ông ta đã mai danh ẩn tích đi tới đây để trốn tránh, cũng may có người chủ bầy dê cho miếng cơm ăn. Nếu không phải như vậy thì ông ta phải chịu bao nhiêu cảnh khổ trong khi nước mất nhà tan nữa. Ông ta nhìn người chủ bầy dê khẽ gật đầu, khoé miệng hiện lên một nụ cười gượng, rồi đi theo người do Hạng Lương phái đến.

Các tướng sĩ tại Tiết Thành nghênh đón vị vương tôn này hết sức nhiệt tình và long trọng, xem ông ta là niềm hy vọng để phục hưng lại nước Sở, tiến cử làm lãnh tụ của nghĩa quân. Giữa tiếng hò reo long trời lở đất của các tướng sĩ, người vương tôn chưa từng tham gia một trận đánh, chưa từng lập một tí công lao nào đã được các tướng sĩ tại Tiết Thành đưa lên địa vị quân vương mà họ đã đặt sẵn. Ông ta vẫn lấy vương hiệu là Sở Hoài Vương, nguyên là Thụy hiệu của tổ tiên trước kia, vì tương truyền người dân nước Sở luôn luôn hoài niệm Sở Hoài Vương.
Cơ cấu chính quyền mới đã được thành lập. Hạng Lương cử Trần Anh làm Thượng Trụ Quốc, phong cho ông năm huyện, đồng thời giao ông nhiệm vụ phụ trợ cho Hoài Vương xây dựng kinh đô tại Hu Di. Hạng Lương tự xưng là Võ Tín Quân, Anh Bố được cử làm Đương Dương Quân, còn một số tướng lĩnh khác cũng được phong tước hiệu. Hạng Lương thấy Phạm Tăng là người am hiểu mưu lược, bèn mời ông ở lại trong quân đội. Phạm Tăng bằng lòng và kể từ đó trở thành mưu sĩ trong nghĩa quân của họ Hạng.

Trong khi số người của Hạng Lương cùng đưa Sở Hoài Vương lên ngôi, thì bộ tướng cũ của Lưu Bang cũng đề xuất một kiến nghị: hậu duệ của vua Hàn là Hoành Dương Quân Hàn Thành, một người có đức có tài, nên để ông ta nối ngôi vua, khôi phục lại nước Hàn, để tăng cường lực lượng chống Tần.
Trương Lương đề xuất kiến nghị đó không phải là không có lý do. Thì ra, Trương Lương xuất thân từ một danh tộc của nước Hàn, nguyên là họ Cơ, tên thật không ai còn biết. Ông nội và cha của Trương Lương từng làm tướng quốc năm đời của nước Hàn. Sau khi Tần tiêu diệt Hàn, gia đình của Trương Lương vẫn còn giàu có, chỉ riêng gia đồng đã đông tới 300 người. Lúc bấy giờ người em trai của ông bị bệnh chết, nhưng Trương Lương không lo việc ma chay cho người em, mà đem hết tài sản của mình để chiêu mộ thích khách. Ông cần phải trả thù cho nước Hàn và gia tộc của ông. Năm 218 Tr. CN, khi Tần Thủy Hoàng đi thị sát phía đông và đến Dương Võ, thì lòng phục thù của Trương Lương lại sôi sục lên. Ông dẫn theo một người lực sĩ do chính ông chiêu mộ được, tay cầm một trái chùy bằng sắt nặng ngoài trăm cân, núp sau một tảng đá cạnh con đường thi đạo, chờ xa giá của Tần Thủy Hoàng đi tới, nghe lệnh của Trương Lương, người lực sĩ này liền ném trái chùy sắt ra, nhưng không may trái chùy sắt lại đánh trúng một cỗ xe đi kèm, Tần Thủy Hoàng vẫn bình an vô sự.
Sau cuộc mưu sát bất thành này, Trương Lương buộc phải thay tên đổi họ trốn tới Hạ Phi, từ đó người ta quen gọi ông là Trương Lương. Có một hôm, Trương Lương đang đi tản bộ ngang qua một cây cầu tại Hạ Phi, trông thấy một cụ già mặc một chiếc áo thô ngắn, cố ý ném chiếc giàu của mình xuống cầu trước mặt Trương Lương, và bảo Trương Lương đi nhặt. Lúc ban đầu Trương Lương cảm thấy rất tức giận, nhưng sợ sinh chuyện rắc rối nên cũng đi nhặt lên cho cụ già. Cụ già lại bảo Trương Lương mang chiếc giày vào chân cho mình. Trương Lương rất bực nhưng vẫn làm theo. Cụ già tỏ ra hài lòng, mỉm cười nói:
- Thằng bé này dạy được đấy!
Đồng thời, cụ già bảo Trương Lương vào buổi sáng năm hôm sau trở lại đây. Trương Lương cảm thấy rất khó hiểu, nhưng vẫn gật đầu bằng lòng. Nào ngờ, đến khi trời vừa sáng vào ngày thứ năm ông đi tới chiếc cầu, thì thấy cụ già đã có mặt trước, và ngỏ lời chê trách Trương Lương đến quá muộn. Nói xong thì giũ tay áo ra đi, nhưng không quên hẹn Trương Lương năm hôm sau sẽ trở lại đây. Đến này thứ năm, trống canh năm vừa đánh, tiếng gà vừa gáy rộ, Trương Lương đã thức dậy đi đến chiếc cầu, nào ngờ cụ già cũng đã đến trước nên đành phải chờ đợi năm hôm sau lần thứ ba. Lần này, mới nửa đêm Trương Lương đã thức dậy đi tới điểm hẹn. Khi cụ già tới, tỏ ra hài lòng, rồi từ trong áo lấy ra một quyển binh thư trao cho Trương Lương bảo ông nghiên cứu kỹ để sau này trở thành bậc thầy của các đế vương, vì 10 năm sau thời cuộc sẽ có thay đổi. Cụ già còn dặn 13 năm sau đến Tế Bắc để gặp cụ, và nói rằng một tảng đá vàng dưới chân núi Cốc Thành chính là cụ. Nói dứt lời, cụ già thong thả bước đi nhưng không biết ông đi về đâu. Trương Lương mang quyển sách về nhà xem qua, thấy nó là quyển Thái Công Binh Pháp. Ông hết sức mừng rỡ, ngày đêm đọc ngấu đọc nghiến và dần dần đã thuộc làu.
Đó là câu chuyện "Hoàng Thạch Thụ Thư" được lưu truyền từ lâu. Cụ già huyền bí đó sách sử gọi là "Di Thượng Lão Nhân" (cụ già trên cầu), hoặc "Hoàng Thạch Công". Câu chuyện trên chưa chắc có thật, nhưng sách Hoàng Thạch Công tới này vẫn còn, từ xưa vẫn được xem là một trong "Võ Kinh Thất Thư", tức "Hoàng Thạc Công Tam Lược". Trương Lương đối với quyển sách này rất tinh thông, do đó mà ông trở thành người có tài về thao lược. Chúng ta không cần phải đi khảo chứng Trương Lương phải chăng từng có một kỳ ngộ trên cầu như thế, nhưng khi ông sống tại Hạ Phi ông đã lập đàn nghiên cứu binh pháp là chuyện có thật. Đó là do trong khi trốn tránh vương triều nhà Tần, ông có đủ thì giờ rảnh rỗi để đọc binh thư.

Trương Lương đã lẩn trốn tại Hạ Phi suốt 10 năm, cũng tức là ông đã chờ đợi suốt 10 năm. Sau 10 năm, Trần Thắng dựng cờ khởi nghĩa, ngọn lửa phục thù trong lòng Trương Lương lại cháy bùng lên. Ông chiêu mộ hơn 100 thanh niên tráng sĩ, chuẩn bị khởi nghĩa. Lúc bấy giờ thì Cảnh Câu cũng được đưa lên làm Sở Vương, đóng tại Lưu Thành. Trương Lương muốn đến để gia nhập nghĩa quân, nhưng giữa đường thì gặp Lưu Bang, cho nên Trương Lương đã gia nhập nghĩa quân của Lưu Bang và Lưu Bang phong cho Trương Lương làm Cừu Tướng, lo về việc trông nom các chiến mã. Trong thời gian này Trương Lương đã nhiều lần giảng giải về Thái Công Binh Pháp cho Lưu Bang nghe. Lưu Bang mặc dù chưa bao giờ học hành, nhưng rất thông minh, chỉ nghe qua mấy lần là đã thuộc làu làu. Trương Lương cho rằng mình đã gặp một vị minh chúa, nên vui vẻ đóng góp sức lực mình cho Lưu Bang. Lẽ tất nhiên là Trương Lương không bao giờ quên chuyện phục hưng nước Hàn, vì đó là mục tiêu chủ yếu trong việc chống Tần rửa hận của ông.
Sau khi ông đã nói hết tâm trạng của mình cho Hạng Lương nghe, Hạng Lương tỏ ý tán đồng. Ông liền phái Trương Lương đi tìm Hàn Thành, lập ông này làm Hàn Vương, cử Trương Lương làm Tư Đồ, phụ tá cho Hàn Vương. Sau khi Trương Lương lập Hàn Vương xong, liền cùng Hàn Vương dẫn 1000 người tiến về phía tây để thu hồi đất cũ của nước Hàn, liên tiếp hạ được mấy thành ấp, nhưng lại bị quân Tần đánh chiếm trở lại. Thế là Trương Lương buộc phải đánh du kích chung quanh quận Vĩnh Xuyên. Lúc bấy giờ, Hạng Lương, Hạng Võ, Lưu Bang... đang bắt đầu những hành động quân sự mới.
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét