Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Tây Sở Bá Vương Hạng Võ 2

Trang 2 trong tổng số 26

Chương 1 (B)
Một cơn ác mộng lúc tuổi ấu thơ

Thời ấu thơ là thời mà con người thường có nhiều giấc chiêm bao. Những giãc chiêm bao đó thật chẳng khác nào những bông hoa rực rỡ hiện lên trong ống kính vạn hoa, xinh đẹp mê hồn như chiếc cầu vồng bắc ngang bầu trời. Sự tưởng tượng ngây thơ của trẻ con thường từ đó vẽ nên những bức tranh xinh đẹp về cuộc đời, dẫn dắt cho tâm hồn thơ ngây đi dạo khắp những miền xa xôi trong trời đất.
Giấc mộng của Hạng Võ trong thời thơ ấu không phải tất cả đều đẹp đẽ. Xã hội đang có những sự biến chuyển to tát, gia cảnh đang suy sụp, thân nhân chết chóc, đã mang đến cho cậu những ký ức như một cơn ác mộng.
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Năm 225 Tr. CN, Hạng Võ đã 8 tuổi. Qua sự giáo dục của người chú là Hạng Lương, cậu bé Hạng Võ đã hiểu biết rất nhiều sự việc. Cậu không còn ham thích những trò chơi đùa con trẻ nữa, mà luôn tò mò tình hình ở bên ngoài. Cậu luôn đặt ra nhiều vấn đề lý thú để hỏi người chú, trong đó có cả những đại sự về binh nhung, về danh thần hiền tướng, về dũng sĩ tài ba, không có vấn đề gì mà cậu không đặt thành câu hỏi. Cậu chừng như đã trưởng thành không còn giống những đứa bé ở chung quanh. Thế nhưng, Hạng Lương lúc bấy giờ không còn một tình cảm sôi nổi, sẵn sàng giải đáp những câu hỏi của Hạng Võ như trước kia. Với một tâm hồn có ý thức về quốc gia rất mãnh liệt, cũng như mặc cảm về sự suy vong của đất nước sâu đậm, Hạng Lương đang có rất nhiều âu lo trước tình hình hiện tại của đất nước.

Trong những ngày gần đây, thế tấn công của nước Tần cứ ngày càng mãnh liệt, tin tức chiến bại từ các nước cứ liên tục truyền tới. Nước Hàn đã bị diệt vong, đô thành của nước Yên là Kế cũng đã bị đánh chiếm, vua Yên phải bỏ chạy về Liêu Đông. Mùa xuân năm nay, tướng Tần là Vương Tiễn và người con trai của tướng này là Vương Bôn đang dẫn mười vạn quân mở cuộc tấn công vào nước Ngụy, bao vây đô thành của nước Ngụy hết sức chặt chẽ, một con kiến cũng khó bò qua. Họ chờ cho quân sĩ của nước Ngụy mệt mỏi, thiếu lương thực ăn, mới phá đê sông Hoàng Hà và đê Hồng Câu, cho nước sông chảy vào thành Đại Lương, khiến vách thành sụp đổ, quân dân trong thành chết đuối vô số kể, buộc Ngụy Vương Giả phải đầu hàng, nước Ngụy cũng bị tiêu diệt. Giờ đây, nước Sở đã trở thành mục tiêu tấn công kế tiếp của nước Tần. Quân Tần đang gióng trống phất cờ tiến về phía đông, uy hiếp một cách nghiêm trọng nước Sở. Vua Sở như đang ngồi trên bàn chông, nhân tâm đang chao đảo, đâu đâu cũng sợ hãi hoang mang. Phụ thân của Hạng Lương là Hạng Yến từ lâu bặt vô âm tin. Tương truyền rằng ông suốt ngày bận rộn với việc chiến tranh, không lúc nào được rảnh rỗi. Mùa đông năm qua, tướng Tần là Vương Bôn dẫn quân mở cuộc tấn công vào nước Sở, do nước Sở thiếu phòng bị, việc chỉ huy cũng có nhiều điều sơ hở cho nên đã liên tiếp bị quân Tần chiếm đến hơn mười thành ấp. Sau khi thành bị phá hủy thì nhân dân cũng bị tàn sát, hao binh tổn tướng, thảm bại nặng nề, làm cho sĩ khí của quân Sở bị ảnh hưởng rất lớn, không ít binh sĩ và bộ phận tướng tá bị mất tinh thần, vậy nước Sở phải chăng có thể chống đỡ được những cuộc tấn công của nước Tần, rõ ràng là điều mà mọi người đều mất niềm tin. Thống soái của quân Sở là Hạng Yến, sau khi được sự đồng ý của vua Sở đã tiến hành chỉnh đốn quân đội, lập lại kỷ cương để sĩ khí của nước Sở mau chóng được củng cố. Hạng Yến là một lão tướng của nước Sở, có nhiều công lao, biết thương yêu binh sĩ, có uy tín rất cao trong quân đội. Quân Sở sau khi được sự chỉnh đốn mạnh mẽ của ông, đã bắt đầu có một số khởi sắc. Giờ đây quân Sở đang gối giáo chờ đợi thời cơ, chuẩn bị phản kích trước những cuộc tấn công của quân Tần. Nhưng tin tức ngoài biên cương truyền về cho biết, một viên tướng trẻ tuổi của nước Tần là Lý Tín đã phụng mệnh vua Tần làm thống soái, cùng Mông Điềm dẫn hai chục vạn binh tập kết tại quận Dĩnh Xuyên, và chia binh thành hai cánh cùng tiến về hướng đông. Họ đã đánh chiếm được Bình Dư và Tấm Thành là hai ngôi thành ở ngoài biên cương của nước Sở. Xem ra, một trận đại chiến sẽ khó tránh khỏi.

Vào một ngày âm u, có một lính kỵ mã từ trạm dịch ở ngoài biên cương phi như bay về đến nhà Hạng Lương. Người kỵ mã này được lệnh trở về Kinh Sư để báo cáo tình hình quana sự cho quân Sở, nhân tiện ghé qua nhà họ Hạng để trao một bức thư. Đây là bức thư của Hạng Yến, chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: "Cuộc chiến tại Bình Dư và Tấm Thành đang bất lợi, chuẩn bị phản kích. Vậy con ta nên an tâm lo việc nhà, lo dạy dỗ cháu nhỏ, không cần lo lắng chi cả."
Sau khi tiễn chân người lính trạm dịch, Hạng Lương cảm thấy tâm trạng nặng nề, không ngớt bước tới bước lui trong gian phòng. Hạng Võ từ bãi bên ngoài nhanh nhẹn chạy vào. Trên tay cậu bé còn cầm một thanh kiếm sắt, hơi thở hào hển, rõ ràng là cậu đang luyện tập kiếm pháp, vừa thấy Hạng Lương, Hạng Võ lộ sắc tức giận ném mạnh thanh gương xuống đất nói: "Thưa chú, con không muốn học kiếm pháp nữa đâu!" Hạng Lương ngạc nhiên hỏi: "Tại sao?" Hạng Võ đáp: "Kiếm thuật dù học có tinh thâm tới đâu, cũng chỉ có thể đối kháng với một người, vậy có dùng vào đâu được!" Nghe qua câu nói đó Hạng Lương rất tức giận, trước đây Hạng Lương đã dốc lòng dạy Hạng Võ học thư pháp, nhưng Hạng Võ cảm thấy không hứng thú lắm nên cuối cùng đã bỏ dỡ giữa chừng. Hạng Lương liền dạy cậu học kiếm pháp, hy vọng cháu mình sẽ trở thành người giỏi võ nghệ. Không dè Hạng Võ suy nghĩ lung tung, không thể tập trung tinh thần vào việc luyện kiếm. Một khi không thể tập trung tinh thần để hằng ngày khổ luyện, thì làm sao thành tài cho được? Hạng Lương đang muốn lên tiếng quở trách đứa cháu có nhiều cao vọng của mình, không ngờ Hạng Võ đã lên tiếng trước: "Thưa chú, ngoài chiến trường bao giờ cũng có thiên binh vạn mã chém giết lẫn nhau, vậy xin chú hãy dạy cho cháu bản lãnh của một người có thể chống trả được với muôn người. Sau này cháu khôn lớn sẽ giống như ông nội trở thành một tướng quân thống lãnh quân đội tác chiến ngoài mặt trận!" Hạng Võ nhắc tới ông nội với sắc mặt rất kiêu hãnh. Trong tâm khảm của Hạng Võ, ông nội chính là một thần tượng đẹp nhất. Cậu luôn luôn sùng bái khí khái của ông nội mình.
Tâm trạng của Hạng Lương không giống như đứa cháu. Ông đang nhớ đến người cha ở ngoài mặt trận, cho nên đang nóng lòng như lửa đốt. Tất nhiên, Hạng Lương cũng không khỏi thầm khen ngợi Hạng Võ, tuy còn bé mà đã có chí lớn, nói lên những lời nói phi thường. Thế là Hạng Lương buộc phải hứa với Hạng Võ, là chờ khi có thì giờ rảnh rỗi sẽ dạy cậu ta học binh pháp. Binh pháp là môn học dạy con người ngồi trong lều tướng để thảo ra những kế hoạch tác chiến ngoài mặt trận, cũng như cách dụng binh chọn tướng trong chiến tranh. Đó chính là một môn học có thể chống trả lại với sức mạnh của muôn người. Hạng Võ nghe qua lấy làm vui mừng, nói: "Thưa chú, chú nhất định phải dạy cho cháu đấy nhé!" Hạng Lương đáp: "Dạy thì được, nhưng hôm nay thì chưa được, chú còn đang bận nhiều việc, vậy cháy hãy đi luyện tập kiếm pháp nhé!" Hạng Võ vâng lời, vui mừng bỏ đi ra ngoài.

Quân Tần mở cuộc tấn công vào nước Sở lần này, đã chọn vùng bình nguyên nằm giáp giới giữa hai nước Tần và Sở để làm điểm giao tranh. Mục đích của quân Tần là có ý đồ tiêu diệt quân đội dã chiến của nước Sở. Thống soái quân Tần là Lý Tín phán đoán, quân Sở đứng trước cuộc tấn công của quân Tần, chắc chắn sẽ xây dựng tuyến phòng ngự hai bên dòng sông Nhử Thủy, cho nên ông ta đã tiến quân thành hai cánh như hai gọng kềm, ra lệnh cho Mông Điềm chỉ huy một bộ phận quân lực men theo hai bờ sông Nhử Thủy, tiến lên để mở cuộc tấn công quân Sở từ chính diện, còn bản thân ông ta thì chỉ huy quân chủ lực cơ động tấn công vào cánh trái của quân Sở, và sẽ hội sư với Mông Điềm để cùng ra tay tiêu diệt quân Sở. Giai đoạn đầu của chiến dịch này, các mũi tần công của quân Tần đều rất thuận lợi, họ xua quân tiến lên đánh bại quân Sở yếu thế hơn. Mông Điềm đã tiến tới Tẩm Thành, và Lý Tín cũng tiến tới Bình Dư. Người binh sĩ trạm dịch đưa tin về kinh đô chính là tình hình của giai đoạn chiến đấu này.
Thực ra, Hạng Yến là người rất giỏi chiến lược, cho nên ông không bố trí quá nhiều binh lực tại Bình Dư và Tẩm Thành. Số binh sĩ của ông bố trí tại hai địa điểm trên chẳng qua là để theo dõi tình hình quân địch. Ông chờ cho chủ lực của quân địch đi sâu vào nội địa sẽ mở cuộc bao vây rồi áp dụng cách phòng ngự cơ động có chiều sâu, xua quân chủ lực của mình tập trung tại khu vực bờ sống Hoài Hà nằm về phía bắc của kinh đô Thọ Xuân. Do không gặp sự chống trả quyết liệt nào của quân Sở, cho nên Lý Tín đã chỉ huy một đoàn khinh binh nhanh nhẹn tiến về phía đông, vượt qua sông Hoàng Hà, Hạng Yến thấy Lý Tín chỉ huy một đạo quân cô đọc thọc sâu vào nội địa của mình, bị cắt đứt với quân chủ lực ở phía sau, bèn ra lệnh cho quân chủ lực của nước Sở cấp tốc tiến lên để mở cuộc đại phản công. Quân Tần không ngờ điều đó nên hoang mang và rối loạn cả hàng ngũ. Lý Tín vội vàng dẫn tàn quân chạy về Thành Phụ ở phía tây, rồi hợp cùng quân của Mông Điềm lui về giữ Trần Ấp, đắp luỹ cố thủ. Quân Sở thừa thắng truy kích, sau ba ngày ba đêm tiến quân không lúc nào ngừng, quân Sở đã áp sát doanh luỹ của quân Tần, hạ được hai doanh trại, chém chết bảy viên Đô Úy, Lý Tín thấy thế vội vàng bỏ chạy trở về đất Tần.
Sau khi tin chiến thắng truyền về kinh đô của nước Sở, người trong nước ai ai cũng vui mừng, nhất là nhà họ Hạng lại càng vui mừng khôn xiết, Hạng Lương liền bày tiệc trong nhà, gặp gỡ nhiều bạn bè thân thiết để cùng chúc mừng họ Hạng vừa lập được chiến công mới cho nước Sở. Hạng Võ cũng đắm mình trong bầu không khí cực kỳ vui mừng đó. Cậu ta cảm thấy ông nội của mình thật xứng đáng là một vị anh hùng có thể chống trả với sức mạnh muôn người. Cậu ta mong mỏi ông nội sớm trở về đề dạy cậu trở thành một con người trong tương lại cũng có thể "đối địch với muôn người."
Thế nhưng, ông nội cậu không trở về vì chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. Mặc dù quân Tần lần thứ nhất tấn công nước Sở gặp trở lực, nhưng quyết tâm diệt Sở của họ vẫn chưa nguôi. Vua Tần Doanh Chính đang tích cực trù hoạch lần tấn công thứ hai vào nước Sở.

Vua Tần Doanh Chính sau khi bị thất bại đã nhận ra nguyên nhân chủ yếu là do dùng người không đúng chỗ. Lúc ban đầu khi cử binh đánh Sở, Doanh Chính nghĩ rằng Lý Tín từng chỉ huy quân Tần tiêu diệt nước Yên, nên muốn cử ông ta làm thống soái. Vua Tần hỏi ông ta cần bao nhiêu binh mã, Lý Tín nói một cách quả quyết, chỉ cần hai chục vạn quân là đủ. Doanh Chính lại hỏi lão tướng Vương Tiễn, tướng này bảo quân lực của Sở hãy còn mạnh, vậy nếu không đủ sáu chục vạn binh thì không thể đánh chiếm được. Doanh Chính trách Vương Tiễn quá nhu nhược, Vương Tiễn cảm thấy bất mãn, nên đã cáo lão xin trở về quên nhà. Khi nhớ lại chuyện đã qua, Doanh Chính không khỏi hối hận, đích thân đến quê hương của Vương Tiễn để mời ông ta làm thống soái, cử binh đánh Sở lần thứ hai. Vương Tiễn không thể thoái thoác, đành phải đồng ý. Nhưng ông ta vẫn kiên quyết nói: "Nếu đại vương muốn sử dụng thần, thì phải có đủ sáu chục vạn quân mới được!" Doanh Chính hứa sẽ cấp đủ quân số như lời yêu cầu của Vương Tiễn, nên Vương Tiễn đã trở lại triều đình nhận nhiệm vụ.
Lần này Vương Tiễn rút ra được bài học khinh địch của Lý Tín, nên đã thay đổi sách lược tấn công. Ông đi theo con đường tiến binh trước kia của Lý Tín để vào nước Sở, và khi tới Thương Thủy, Thượng Thái, Bình Dư thì liền ra lệnh cho toàn thể quân đội dừng lại, đắp luỹ cố thủ, dồn binh luyện võ với mục đích cho binh sĩ nghĩ ngơi để chờ quân Sở từ xa kéo tới tấn công. Tần Vương Chính đã động viên tất cả nhân lực, vật lực chi viện cho tiền tuyến. Lúc bấy giờ thống soái của quân Sở là Hạng Yến vẫn tập trung chủ lực tại Bắc Cương nằm trên bờ sông Hoài, tức tại vị trí cách đô thành Thọ Xuân về phía bắc, chờ quân Tần kéo tới tấn công. Hai quân chong mặt nhau suốt mấy tháng, vua Sở là Phụ Sô cho rằng Hạng Yến sợ địch, nên nhiều lần phái người hối thúc ông ra quân. Hạng Yến không còn cách nào khsc, nên đành kéo quân về hướng tây để tấn công quân Tần. Quân Tần do có chiến luỹ kiên cố, nên quân Sở không cách nào đánh chiếm được, phải đành chuyển quân sang hướng đông. Lúc bấy giờ quân Tần liền từ trong doanh luỹ tuôn ra, chuyển thế thủ thành thế công. Họ rượt theo quân Sở tới Kỳ Nam, thì phía trước mặt của quân Sở là sông Oa Hà, còn sau lưng là quân Tần đang truy đuổi, khiến trật tự bắt đầu rối loạn, mất cả hàng ngũ. Thống soái Hạng Yến bị quân Tần chém chết. Tiếp đó Vương Tiễn ra lệnh cho tướng Mông Võ tiến hành bình định khu vực phía bắc sông Hoài của nước Sở, còn bản thân ông ta thì xua quân đánh thẳng vào kinh đô của nước Sở là Thọ Xuân.
Nước Sở đang chao đảo giữa phong ba bão táp. Một vùng đất rộng lớn của họ đã bị quân Tần chiếm lấy. Riêng Thọ Xuân cũng trở thành một ngôi thành cô độc, vừa không có quân đội mạnh mẽ để giữ thành lại không có quân cứu viện tỏng khi quân Tần vây thành thì người đông thế mạnh, việc thành bị hạ chỉ là việc xảy ra nay mai. Vua Sở là Phụ Sô ngồi trong cung điện lúc nào cũng bồn chồn lo sợ. Ông ta hối hận tại sao trước đây không để cho Hạng Yến được chủ động tấn công, khiến cho mấy chục vạn quân Sở bị hủy diệt trong chốc lát. Hạng Yến chính là cây trụ chống, tấm bình phong của nước Sở, nay mất đi Hạng Yến và cả quân đội của ông, thì đô thành này làm sao bảo vệ được? Nhà vua kêu trời, kêu đất khóc than cho cơ nghiệp của nước Sở sắp sửa tiêu tan, nhưng tất cả hành động đó chẳng còn có ích lợi gì. Tiếng hò reo của quân Tần đang mở cuộc tấn công nghe đinh tai nhức óc, và chẳng khsc gì một ngọn thủy triều đang ồ ạt cuốn tới. Phụ Sô hết sức sợ hãi, nhưng cũng không biết làm gì hơn.
Rõ ràng tường thành Thọ Xuân không thể nào ngăn chặn được bước tiến của quân Tần. Sau khi quân đội của Vương Tiễn phá được cửa thành, liền xông thẳng vào hoàng cung của nước Sở. Thế là người cháu năm đời của Sở Hoài Vương là Hùng Phụ Sô lại đóng vai trò bi thảm của Sở Hoài Vương trươc kia, trở thành một tên tù binh của quân Tần.

Sau khi nước Sở bị diệt vong thì lịch sử tám trăm năm của quốc gia này xem như đã lật đến trang cuối. Gia tộc họ Hạng cùng hưởng vinh hoa cùng chịu nhục với nước Sở cũng vì vậy mà suy sụp hoàn toàn. Sự giàu sang danh vọng trước kia đã trở thành quá khứ, tài sản trong gia đình không mong mỏi gì được phát triển thêm, mà họ chỉ dùng số tài sản đó để sống qua ngày. Ruộg đất mênh mông của họ được bán dần, đông đảo tôi tới trong nhà đã lần lượt ra đi, không còn thấy cảnh trước cổng, trước sân khách khứa đông như hội, mà trong khu sân rộng lạnh lẽo đó chỉ còn nghe tiếng dế nỉ non, trong thiên tỉnh lạnh lẽo của gia đình chỉ còn bóng trăng tàn giá lạnh như băng. Đối với gia đình họ Hạng, một điều đau đớn nhất chính là cái chết của Hạng Yến. Lúc Hạng Yến còn sống và đang nắm binh quyền trong tay, thì uy quyền của ông trở thành cây trụ chống của gia đình; chức tước quyền uy của ông đã mang đến cho gia đình họ Hạng tất cả những sự vẻ vang danh giá. Ông đã mang vinh hoa phú quý cho cả gia tộc. Con cháu của ông cũng nhờ danh vọng của ông mà được người đời kính trọng hơn. Thế nhưng ngày nay, cùng với sự ra đi của ông, và sự tiêu vong của nước Sở, gia đình họ Hạng mất đi tất cả những nơi nương tựa và cũng giống như một đỉnh núi cao bỗng nhiên đổ ập xuống hố sâu.
Năm đó là năm 223 Tr. CN, tức năm thứ hai mươi bốn đời vua Tần Vương Chính.
Năm đó Hạng Võ vừa mới 10 tuổi. Chỉ mới 10 tuổi mà một ấn tượng long trời lở đất, nước mất nhà tan đã gieo vào lòng của cậu. Hạng Võ cảm thấy đó là một sự thù hận làm rung chuyển cả tâm hồn, là một ký ức đầy thống khổ!
Qua năm sau, tức vào năm 222 Tr. CN, Hạng Võ được 11 tuổi, tướng Tần là Vương Bôn lại cử binh đánh chiếm Liêu Đông, bắt sống Yên Vương Hỷ, thế là nước Yên đang sống cầu an ở tại một góc xó đã bị diệt vong. Tiếp đó Vương Bôn lại cử binh đánh chiếm Đại Quận. Triệu công tử Gia đang xưng vương tại đất Đại, trong tay chỉ có một dúm binh mã cho nên đã bị quân Tần đánh bại một cách dễ dàng và bắt làm tù binh. Từ đó nước Triệu cũng hoàn toàn bị diệt vong.
Qua năm sau, Vương Bôn lại từ phía nam nước Yên tấn công đô thành của nước Tề là Lâm Tri. Tề vương Điền Kiến bị bắt sống, nước Tề từ đó cũng bị tiêu diệt. Đến đây thì Tần Vương Doanh Chính đã hoàn thành sự nghiệp nhất thống của ông ta, cuộc chiến tranh chinh phục kéo dài nhiều năm cũng tuyên cáo kết thúc. Tất cả đất đai trong thiên hạ chỉ trong vòng một đêm đều trở thành của nước Tần, tất cả bá tánh trong thiên hạ chỉ trong vòng một đêm đã trở thành con dân của vương triều nhà Tần.
Một vương triều mới đã ra đời. Từ đó từng chính lệnh một đã liên tục từ trung tâm quyết sách của vương triều nhà Tần tại Hàm Dương được truyền tới khắp mọi nơi:
Để chứng tỏ địa vị tối cao và sự nghiệp to lớn của mình, Doanh Chính đã tập trung tôn hiệu của Tam Hoàng Ngũ Đế thời cổ, tự xưng là Hoàng Đế, cũng được gọi là Thủy Hoàng Đế, tức vị hoàng đế đầu tiên. Nhà vua quy định Hoàng Đế tự xưng là "Trẫm", mệnh của hoàng đế được gọi là "Chế", lệnh được gọi là "Chiếu" , quả ấn được gọi là "Tỷ". Trong chế thư Tần Thủy Hoàng có nói: Trẫm là Thủy Hoàng Đế, các đời sau cứ theo thứ tự mà tính, như Nhị Thế, Tam Thế, và nối tiếp cho tới Vạn Thế, tức truyền ngôi vô cùng vô tận. Ông ta xây dựng "một quốc gia của riêng nhà mình", và mở đầu một hệ thống hoàng gia muôn đời.
Nhằm tăng cường sự khống chế trên toàn quốc, Tần Thủy Hoàng đã xây dựng một thể chế chính trị chặt chẽ từ trung ương tới địa phương: ở trung ương Hoàng Đế là người đứng đầu, bên dưới có "Tam Công Cửu Khanh". Tam Công và Cửu Khanh bàn bạc về việc chính sự, và tất cả đều do hoàng đế quyết định. Tại địa phương được thực hành chế độ Quận, Huyện, chia toàn quốc ra thành 36 quận, dưới Quận có Huyện, dưới Huyện có Hương, dưới Hương có Lý, dưới Lý có Đình, và ở cơ sở còn có Thập, Ngũ, cứ mười nhà được gọi là một Thập, năm nhà được gọi là một Ngũ, cứ từng thứ bậc được khống chế chặt chẽ với nhau.

Tất cả những pháp luật của sáu nước trước kia đều bị xóa bỏ, và "Luật Nhà Tần" sau khi được sửa chữa đã ban hành khắp toàn quốc. Luật văn chia thành ba loại. Loại thứ nhất có tương quan đến những vụ án như trộm, cướp, tù, bộ (bắt bớ), tạp, cụ, v.v... và kèm theo sự giải thích về những trường hợp đó; loại thứ hai có tương quan đến ruộng đất, lương thực, tiền tệ, mậu dịch, sân bắn, cân đong đo đếm; loại thứ ba là luật và lệnh đối với các mặt khác, cũng như điều lệ về các vụ án cũng như hình ngục. Trong luật văn về mặt hình pháp được quy định hết sức nghiêm khắc.
Phép cân đong đo đếm, tiền tệ, văn tự của sáu nước trước kia cũng nhất luật phải chấp hành theo quy định mới và thống nhất. Phép cân đong đo đếm được dùng "Hành, Thạch, Trương, Xích" của Thương Ương quy định để làm tiêu chuẩn, đơn vị tính bằng Dật; tiền tròn lấy nửa lượng làm một đơn vị; văn tự thì lấy kiểu chữ Truyện của nước Tần làm cơ sở, và công bố ba nghìn ba trăm chữ Tiểu Truyện để làm mẫu mực, sử dụng trên toàn quốc, quy định cả nước nhất luật đều phải viết theo thể Tiểu Truyện và Lệ Thư.
Quốc gia thực hành chính sách "Thượng Nông Trừ Mạc" (đề cao nghề nông và xóa bỏ nghề buôn bán), ra lệnh cho tất cả những đại thương gia cùng với cac người bị tội đều phải dời cả gia đình xuống vùng Lĩnh Nam sinh sống, lấy đó để hạn chế sự phát triển của thương nghiệp; lại quy định sự miễn giảm xâu thuế để làm biện pháp khuyến khích phát triển canh nông, đồng thời, di dời những người nông dân đông đảo ở vùng Trung Nguyên đến những địa phương thiếu sức lao động để khai khẩn đất hoang...
Cần phải nói những biện pháp của Tần Thủy Hoàng ban bố là có lợi đối với việc phát triển sản xuất, sự tiến bộ của xã hội, và việc hình thành một quốc gia phong kiến trung ương tập quyền. Nhưng, đói với chú cháu của họ Hạng, thì đây lại là một hành động ngược ngạo, trái với lẽ trời, trái với lòng dân, là những hành động hoàn toàn xằng bậy! Họ quen sống theo tất cả chế độ do nước Sở quy định, họ lưu luyến những gì đã bị mất, cũng như đời sống quý tộc của nước Sở mà không bao giờ quay trở lại. Họ không quan tâm tới chuyện bỏ những cái cũ để thay vào những cái mới của vương triều nhà Tần, vì đso không phải là quốc gia của họ, trái lại, quốc gia của họ là nước Sở. Họ là thần dân của nước Sở! Họ đau đớn nhận thấy: nước Sở không còn nữa, kinh đô của nước Sở là Thọ Xuân đã trở thành quận lỵ của quận Cửu Giang nhà Tần, còn đất đai dưới chân họ đã được phân chia lại theo chế độ Quận Huyện! Tường thành kiên cố của Thọ Xuân đã bị đập bỏ, cảnh tượng phồn hoa trước kia của kinh đô nước Sở nay không còn nữa, những gia tộc giàu có của nước Sở bị buộc phải dời về Hàm Dương. Tương truyền Tần Thủy Hoàng muốn dời hết mười hai vạn gia tộc giàu có của sáu nước về Hàm Dương để phá hoại cơ sở kinh tế của các quý tộc ở sáu nước. Triều đình liên tục phái người đi vào dân để tịch thu binh khí, ai cất giấu sẽ bị trừng trị theo luật pháp của nhà Tần. Triều đình không cho phép dân gian giữ binh khí để ngăn chặn âm mưu tạo phản. Tất cả binh khí thu gom được đem nấu ra để đúc thành mười hai tượng đồng khổng lồ, đặt trước cung Hàm Dương. Tần Thủy Hoàng mê tín con số "6" cho rằng số 6 là con số hên. Mười hai tượng đồng mỗi tượng nặng hai mươi bốn vạn cân, đều là bội số của 6. Ngoài ra ông ta còn phân chia cả nước thành ba mươi sáu quận, còn khỏag cách giữa hai bánh xe trene toàn quốc đều là sác xích (thước Trung Quốc), tất cả xe đều dùng sáu con ngựa kéo, v.v... Nhưng, các quý tộc của các nước đối với con số 6 lại cảm thấy hết sức căm thù. Tất cả họ đều gặp phải tai họa tày trời: có người bị giết, có người bị lưu đày, có người bị đưa đi làm khổ sai chung với tất cả mọi thứ tội phạm. Sau khi sau nước bị diệt vong, quốc vương của họ đều trở thành tù binh và bị Tần Thủy Hoàng cho giáng xuống làm thứ dân, tịch thu toàn bộ gia sản, tước bỏ tất cả đặc quyền, đồng thời, hậu duệ của họ cũng bị di đời đến những địa phương cách xa quê cha đất tổ của họ. Tôn thất của nước Ngụy đã từ Đại Lương di dời tới Phong huyện; Triệu vương bị lưu đày đến Phong Lăng, chỉ có thể đứng nhìn quê hương xa tít mà hát lên những tiếng hát bi thảm. Tôn thất của nước Sở cũng bị lưu đày, có không ít quan viên và quý tộc đã chịu đổ máu, xác chết của họ bị vứt trên đường đi không ai dám chôn cất...

Tất cả những điều đó đối với chú cháu của họ Hạng cũng như đối với quý tộc của nước Sở mà nói, thì rõ ràng là một tai nạn kinh hồn, như sống trong cảnh địa ngục! Họ căm hận, họ oán thù, tâm hồn của họ đang rung lên lẩy bẩy!
Chú cháu họ Hạng còn nghe nói Tần Thủy Hoàng dựa theo thuyết "Ngũ đức tương khắc, tuần hoàn bất tận", nên đã tuyên bố lấy Thủy Đức để lập quốc. Thủy Đức là gì? Đó là sự tổng hợp của cái giá rét ở miền bắc, cái khắc nghiệt của mùa đông, và cái vô tình của màu đen hắc1 Muốn thể hiện Thủy Đức thì về mặt hành chánh phải xử lý mọi việc một cách cứng rắn, khắc khe, cấp tốc, dùng hình phạt cực nghiêm. Xem ra Tần Thủy Hoàng hiện nayu đang thực sự bắt đầu dựa vào Thủy Đức để tiến hành mọi việc. Đó là một quyết định có tính chất hủy diệt đối với tầng lớp quý tộc của sáu nước, vậy không phải là một cuộc "khủng bố màu đen" ghê tởm đó sao?
Chú cháu họ Hạng cảm thấy hết sức phẫn nộ. Do không khí ngày càng căng thẳng, cho nên họ cảm thấy không thể sống yên được trong gia đình nữa. Họ chuẩn bị tìm nơi khác để tạm lánh thân. Trong giây phút sắp sửa rời khỏi gia đình, bỗng họ dừng chân đứng lại với sắc mặt ngẩn ngơ: Hỡi quê hương! Chả lẽ từ nay ta pha xa rời ngươi sao? Hỡi nước Sở! Chả lẽ ngươi đã bị tan rã trong cơn ác mộng này rồi sao? Họ không tin đây là một sự thực vĩnh viễn. Khắc sâu trong lòng họ là câu nói kích động lòng người của Sở Nam Công: Sở tuy chỉ có ba hộ, mà tiêu diệt nhà Tần chính là Sở!
Chương 1 (C)
Lửa ngầm đang chuyển động

Giữa bầu không khí oi bức của mùa hè, chú cháu họ Hạng cùng đến Lịch Dương, bắt đầu một cuộc sống phiêu bạt đó đây. Thành Lịch Dương nguyên là cố đô của nước Tần, được xây dựng sửa chữa hồi đời Tần Hiến Công năm thứ hai (tức năm 383 Tr. CN), đến đời Tần Hiếu Công năm thứ mười hai (tức năm 350 Tr. CN) thì nước Tần dời đô về Hàm Dương. Như vậy, Lịch Dương đã là thủ đô của nước Tần trước sau ba mươi bốn năm. Thành Lịch Dương toạ lạc tại bờ bắc sông Vị, và nằm trên con đường lớn từ đông sang tây. Phía đông có thể đi đến vùng đất Tam Tấn là nơi có nhiều đại thương gia giàu có. Có thể xem đây là một đại đo thị, từng một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của nước Tần. Thời đó Thương Ương một pháp gia nổi tiéng đã hưởng ứng lời kêu gọi thay đổi đường lối chính trị để đưa nước Tần bước lên con đường giàu mạnh của Tần Hiếu Công nên ông đã tới đây. Tần Hiếu Công đã tiếp nhận ý kiến "thay đổi đường lối chính trị, sửa chữa hình luật, bên trong chú trọng việc canh tác, bên ngoài khuyến khích tưởng thưởng những người dám liều chết cho nước Tần" của Thương Ương thực hành một đường lối pháp trị giúp cho nước Tần đi lên con đường cường thịnh.
Hôm nay kinh đô cũ của nước Tần vẫn phồn hoa như xưa, nhưng bước tới một vùng đất xa lạ này, Hạng Lương bỗng cảm thấy thật là chua xót. Lịch Dương là nơi khởi điểm đi lên con đường cường thịnh của nước Tần, khi quân Tần cử binh tiến về phía đông để bình định sáu nước, thì chiến xa của họ cũng khởi hành từ đây. Lịch Dương là niềm kiêu hãnh của người nước Tần, nhưng đối với chú cháu của họ Hạng là những người dân vong quốc của nước Sở, là một quý tộc lưu vong, thì sự có mặt của họ ở đây quả là một điều sỉ nhục, một sự mỉa mai.

Hạng Lương có một người bạn đang làm nghề buôn bán tại thành Lịch Dương. Ông này đã dựa vào việc buôn bán cũng như việc chăn nuôi mà phát tài. Người này rất trọng khí tiết, có tình nghĩa, đối với bạn bề và tri kỷ một khi đã nói thì chắc, một khi đã làm thì bao giờ cũng có hiệu quả cụ thể, luôn luôn lấy lòng dạ chân thành để cư xử với bạn bè, có phong cách là một người nghĩa hiệp, chứ không giống như bọn con buôn láu cá gian xảo thường thấy, chính vì vậy mà ông ta đã kết giao với rất nhiều bằng hữu ở khắp mọi nơi. Hai năm trước Hạng Lương quen biết với ông trong dịp ông đến Thọ Xuân, thủ đô của nước Sở. Người này cũng có tinh thần thượng võ, biết ít nhiều về kiếm thuật, cho nên đôi bên khi gặp nhau đàm đạo rất hợp ý; từ đó trở thành bạn chí thân. Giờ đây Hạng Lương là người nước mất nhà tan, nhớ tời tình bạn cũn nên mới tìm đến để nương nhờ. Người bạn này tuy là người Tần, một quốc gia chiến thắng, giờ đây lại càng được danh giá hơn; nhưng đối với chú cháu của họ Hạng, tuy là người dân vong quốc, ông ta vẫn không hề có ý xem khinh, mà trái lại có thái độ chân thành hơn lúc trước. Chú cháu họ Hạng hết sức cảm kích, nên dự định ở lại đây một thời gian rồi sau đó sẽ tìm cách trở về cố hương.
Không mấy chốc thời gian đã trôi qua bốn năm năm. Trong khoảng thời gian này, chú cháu họ Hạng có một đời sống rất vui vẻ. Có khi uống rượu, có khi đọc sách, có khi còn ra con đường đông tây buôn bán sầm uất trong thành Lịch Dương để dạo phố, hoặc đến bờ sông Vị để xem người ta câu cá, hoặc ngắm cảnh ghe thuyền buôn bán vào ra tấp nập. Cứ mỗi lần đến đây thì họ liền nghĩ tới quê hương lắm gạo nhiều cá ở nước Sở của mình, cho nên nỗi niềm nhớ quê hương không khỏi làm cho họ cảm thấy rất bùi ngùi. Thế là Hạng Lương liền cùng cháu nhắc lại đủ thứ chuyện ở quê nhà để vơi bớt nỗi niềm của người đang sống phiêu bạt tại đất khách. Như vậy âu cũng là một điều an ủi.
Hạng Võ nay đã là một thanh niên 17, 18 tuổi. Cậu ta có một thân hình cao to, ngực nở vai rộng, sắc mặt màu nâu trông rất khoẻ mạnh, lại có đôi chân mày lưỡi kiếm và đôi mắt sáng rực, có khí khái của một bậc anh hùng. Tính tình của cậu bộc trực, hào phóng, hai cánh tay rắn chắc hơn hẳn mọi người. Đối với binh pháp cậu cũng từng một thời quan tâm học hỏi, nhưng về sau thì lại tỏ ra lạnh nhạt dần. Cậu là người rất sùng bái lòng can đảm, trong khi sức khoẻ của cậu không ai sánh bằng. Cậu cho rằng vũ lực có thể chinh phục được thiên hạ, vậy một người anh hùng chân chính thì phải vừa có sức khoẻ vừa có lòng can đảm, vừa phải gan dạ, vừa phải có kiến thức. Có một hôm cậu cùng đấu vật với một người bạn trẻ, và nhân đó đã dùng hai cánh tay lực lưỡng của mình nhấc bổnng một chiếc đỉnh đồng to làm cho mọi người chung quanh kinh ngạc đến há mồm trợn mắt. Đất Tần là nơi từ lâu có tinh thần thượng võ. Tần Võ Vương là người rất thích trò chơi đấu vật, bên cạnh ông có những người như Nhâm Bỉ, Ô Hoạch, Mạnh Thuyết, nhờ có sức khoẻ hơn người mà được làm quan to. Sau khi nhà vua lên nối ngôi được bốn năm (tức tháng 8 năm 307 Tr. CN), nhà vua cùng thi đua trò cử đỉnh với lực sĩ Mạnh Thuyền, do dùng sức thái quá nên vỡ mạch máu mà chết. Mấy chục năm, tại vùng đất cũ của nước Tần trước kia, lại xuất hiện một dũng sĩ có thể cử đỉnh qua khỏi đầu, tất nhiên việc đó đã trở thành giai thoại truyền tụng khắp nơi ở Lịch Dương. Nhưng người có thể cử đỉnh như Võ Vương trước kia không phải là người Tần, mà chính là một người nước Sở một nước đã từng bị nước Tần tiêu diệt, một quý tộc lưu vong. Khi anh ta đưa cao chiếc đỉnh khỏi đầu, thì trong khoảnh khắc đó không phải anh ta nghĩ tới Tần Võ Vương bị đứt mạch máu chết, mà đang nghĩ tới người anh hùng của nước Sở, từng hỏi thăm chiếc đỉnh đồng tượng trưng cho quyền lực ở Trung Nguyên, từng xưng bá trước chư hầu, đó là Sở Trang Công. Trong tâm hồn của anh đang tràn ngập một thứ hào khí của người nước Sở, trong đầu óc của anh đang hiện lên hình ảnh một ngày nào đó mình sẽ đưa cao chiếc đỉnh tượng trưng quyền lực của nước Tần rồi ném mạnh xuống đất cho nó vỡ tan!
Về sức mạnh có thể cử đỉnh của Hạng Võ, cũng như lòng dũng cảm phi thường của anh ta đã trở thành một giai thoại lưu truyền tự cổ chí kim. Ngày nay phía trước di tích Ý Mã Đài của Hạng vương tại thành phố Từ Châu mà thời xưa gọi là Bành Thành, vẫn còn để một chiếc đỉnh to. Trên chiếc đỉnh sắt này vẫn còn những dòng chữ nổi ca ngợi sức khoẻ phi thường của Hạng Võ: "Vĩ tai Hạng Võ! Khí quán trường hồng. Bạt sơn cái thế, uy chấn cửu trùng..." (Vĩ đại thay Hạng Võ! Hào khí bốc tận trời, nhổ núi sức trùm đời. Rung chuyển khắp nơi nơi...)

Nhờ sự giúp đỡ của người bạn, nên đời sống của chú cháu họ Hạng tại Lịch Dương có thể gọi là rất ổn định. Nhưng vào mùa thu năm đó, một tai họa đã giáng xuống đầu họ. Đầu đuôi câu chuyện là như thế này: Tần Thủy Hoàng khi đi vi hành tại Hàm Dương, đã gặp phải thích khách. Mặc dầu, các cận vệ theo hầu Tần Thủy Hoàng đã bắt và giết chết được thích khách đó, nhưng một cuộc lục soát khắp toàn quốc liền được tiến hành. Mục tiêu lục soát để tìm bắt là các quý tộc của sáu nước cũ. Vì Tần Thủy Hoàng cho rằng chỉ có họ mới có mối thù khắc cốt ghi xương đối với ông ta. Sau khi lệnh lục soát bắt bớ đến Lịch Dương, chú cháu họ Hạng bắt đầu cảm thấy không yên tâm, hơn nữa, lúc bấy giờ Hạng Lương lại do một nguyên nhân ngẫu nhiên đã phạm tội giết người, cho nên trở thành đối tượng bị tìm bắt. Mặc dù có sự che chở của bạn bè nhưng cũng không thể thoát được. Thế là Hạng Lương bị bắt giam vào ngục. Đứng trước tình cảnh dữ nhiều, lành ít đó, Hạng Lương chợt nhớ đến Tào Cửu là một ngục lại trước kia ở Kỳ huyện, giữa họ từng có dịp qua lại với nhau. Hạng Lương bèn nhờ người nhắn tin cho Tào Cửu, nói rõ tình trạng của mình đang bị bắt giam. Tào Cửu không quên tình bạn cũ, liền viết cho viên ngục lại tại Lịch Dương là Tư Mã Hân một phong thư, nhờ ông ta tìm cách giúp đỡ Hạng Lương. Bức thư của Tào Cửu sau khi đến tay Tư Mã Hân, ông này liền suy nghĩ trong giây lát, rồi quả nhiên đã làm đúng theo lời nhờ cậy của Tào Cửu, ra lệnh thả Hạng Lương. Nhưng sau đó, Hạng Lương cảm thấy không thể ở lâu được tại Lịch Dương, nên đã tạ won Tư Mã Hân, Tào Cửu, và những người từng giúp đỡ mình rồi lặng lẽ rời khỏi Lịch Dương trong một đêm tối trời, để bắt đầu một cuộc sống lưu lạc mới.
Nơi dừng chân tiếp đó của chú cháu họ Hạng là Ngô huyện. Ngô huyện trong thời Xuân Thu nguyên là thành Hạp Lư của nước Ngô. Vào năm Châu Kính Vương thứ sáu (tức năm 514 Tr. CN) được Ngô vương Hạp Lư và viên đại thần của ông ta là Ngũ Tứ Tư xây dựng. Thời bấy giờ có quy mô rất to lớn, tường thành cao lại dày, bên ngoài lẫn bên trong tường thành đều có hào sâu, và có tám cửa đfuogn bộ lẫn đường thủy. Trong đó có một cửa được mệnh danh là "Phá Sở Môn", vì quân Ngô từng từ cửa này xuất phát đánh bại nước Sở. Ngôi thành Hạp Lư này trong lịch sử của nước Ngô, vào thời vua Hạp Lư từng xây dựng sửa chữa, cải tiến việc triều chính với ý đồ đưa nước Ngô bước lên con đường cường thịnh, cho nên đã tích tụ rất nhiều lực lượng hùng hầu, "Uy danh lan ra xa ba nghìn dặm, là đệ nhất kinh đô của vùng Giang Nam", một thời xưng hùng, xưng bá tại phía đông nam. Đến khi người con của Hạp Lư là Ngô Phù Sai lên nối ngôi, đã quên mất công lao đời trước, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, khiến đất nước ngày càng suy nhược, cuối cùng bị Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt, từ đó thành Hạp Lư bị đưa vào bản đồ của nước Việt. Sau khi tiến vào thời Chiến Quốc, nước Việt bị nước Sở là một đại quốc ở phương nam đánh chiếm, thế là ngôi thành này trở thành thuộc địa của nước Sở. Hiện nay nó là Ngô huyện, tức một trong hai mươi sáu huyện thuộc quận Hội Kê của nước Tần.
Ngô huyện mặc dù không phồn hoa bằng Lịch Dương, nhưng sống ở đây thì chú cháu họ Hạng có thể nghe được tiếng nói của quê hương nước Sở, thấy được tập quán cũ của nước mình, cho nên họ cảm thấy hết sức thân thiết và sung sướng. Họ Hạng có tiếng tăm rất lớn trong người Sở. Việc Hạng Yến liều chết bảo vệ nước Sở là việc mà ai ai cũng biết. Chính vì vậy mà mọi người đều ngưỡng mộ gia tộc họ Hạng, cho rằng họ có công lớn với nước Sở, là rường cột của nước Sở. Cho nên khi tin tức chú cháu họ Hạng đến Ngô Trung, thì các nhà giàu có, các bận hiền sĩ danh lưu ở địa phương đều đua nhau tới ra mắt. Có những người còn sẵn sàng giúp đỡ về mặt đời sống cho họ, cũng có những người đến nương tựa vào họ. Những thanh niên khoẻ mạnh háo thắng, có lòng yêu nước sôi nổi tại vùng Ngô Trung khi nghe nói Hạng Võ là người vừa dũng cảm vừa có sức mạnh hơn người, lại có một tinh thần nghĩa hiệp, càng tỏ ra sùng kính. Chú cháu họ Hạng cũng hết sức vui vẻ kết giao với họ, cho nên chỉ trong một thời gian ngắn, chung quanh họ đã tập trung những người hào kiệt hảo hán, và họ trở thành một lãnh tụ có uy danh rất lớn tại vùng Ngô Trung. Bất cứ ở địa phương có chuyện nhỏ chuyện lớn gì xảy ra, bao giờ họ cũng tìm chú cháu họ Hạng để xin ý kiến giải quyết. Một khi gặp phải vấn đề sưu thuế hoặc chuyện ma chay, thì những người giàu có đều xin họ đứng ra chủ trì. Hạng Lương là người làm việc rất giỏi, có tài tổ chức, nên được họ rất kính phục, ngay đến quan quyền tại địa phương cũng tỏ ra nể mặt một phần nào đối với họ. Đứng trước tình hình đó, Hạng Lương cảm thấy rất hết sức đắc ý. Trên sắc mặt màu nâu của ông ta không khỏi hiện lên một nét vui mừng.

Nhưng, Hạng Lương là người xuất thân trong gia đình danh tướng của nước Sở, là thành viên của gia tộc họ Hạng, nay đã trở thành một quý tộc lưu vong, chả lẽ chỉ biết lấy nghề giải quyết sưu thuế và tang sự trong địa phương để làm nghề sinh nhai hay sao? Ông có chí hướng riêng, có hoài bão riêng. Vậy chả lẽ lại chịu mai một trong những sự vụ tầm thường đó hay sao? Ông có kế hoạch riêng của mình. Cho nên trong khi làm những công việc, sự vụ đó, ông thường khôn khéo dùng binh pháp để phân phối và khống chế những tân khách, những tử đệ ở chung quanh cùng làm việc, rồi chú ý quan sát tính tình và năng lực của họ. Tỏng quá trình chỉ huy họ làm việc, ông tạo điều kiệu để cho họ phát triển tài năng, đồng thời, cũng từ đó xây dựng thành một lực lượng do chú cháu của họ làm nòng cốt. Trong đời sông hằng ngày, họ thường truyền thụ binh pháp cho các tử đệ Ngô Trung, và dùng thao lực của binh gia để hun đúc họ. Ông bí mật đào tạo chín chục tráng sĩ wor chung quanh mình, rồi huy động tiền bạc để mua binh khí, chỉ đạo họ thường xuyên luyện tập võ công. Trong khi luyện tập thường nghi trang thành những trò chơi, nhưng trong thực tế thì đó lại là những buổi sinh hoạt có ý nghĩa sâu xa. Trong số các tử đệ đó có người sức khoẻ rất phi thường, với hai tay không họ có thể nhổ một thân cây to bằng miệng bát lene khỏi mặt đất, rồi nắm gốc cây múa vun vút và đập xuống mặt đất nghe ào ào. Cứ mỗi lần trông thấy cảnh tượng đó Hạng Lương bao giờ cũng hò reo tán thưởng, và dùng tiền bạc của cải làm phần thưởng để khuyến khích họ. Chừng như trước mắt ông hiện lên cảnh tượng thiên binh vạn mã đang đứng lên khởi nghĩa cũng như trông thất từng đợt tấn công đang ồ ạt diễn ra!
Hạng Võ cũng đoán biết ít nhiều tâm trạng của người chú. Cho dù Hạng Võ không phải là một con người tế nhị, nhưng ông có chung một tình cảm, một tâm trạng với chú, cho nên có một sự sự việc không cần phải nói rõ ra, nhưng tiếng lòng của họ vẫn có thể giao lưu được. Ông nghĩ rằng chú mình chắc hẳn không phải can tâm chịu sống mãi cuộc đời trôi nổi bồng bềnh và quên đi mối hận thù của đất nước. Ông biết chú mình xông xáo lo việc sưu thuế, giúp đỡ mọi người làm ma chay là nhằm che giấu sự nghiệp lớn lao đang ấp ủ. Một lực lượng có thể làm rung chuyển cả đất trời đang được người chú tìm cách tập hợp, tuy bề ngoài đâu đó vẫn bình yên vô sự, nhưng kỳ thực thì ngọn lửa ngầm đang âm ĩ ở trong lòng đất. Hạng Võ cảm thấy hết sức phấn khởi mà cũng cảm tháy hết sức kích động, ông phải gúp chú mình một tay và phải đồng cam cộng khổ với người chú. Năm Tần Thủy Hoàng thứ 37 (tức năm 210 Tr. CN), vào một ngày mùa xuân, trong thành Ngô Trung bỗng thấy tăng cường nhiều lính canh gác. Chúng luôn đi tuần rôn khắp các nẻo đường, đối với người lạ mặt xét hỏi một cách chặt chẽ, khiến cho bầu không khí trong thành Ngô Trung căng thẳng hẳn lên. Cùng một lúc đó, quan quyền địa phương truyền xuống mệnh lệnh cho biết: Vào mùa đông năm nay Tần Thủy Hoàng sẽ đi thị sát khắp thiên hạ, và trên đường đi sẽ ghé ngang qua địa phương này, vậy bá tánh trong cả thành cần phải giữ nghiêm luật lệ, để bảo đảm cho cuộc thị sát của hoàng đế được thành công!

Đây không phải là lần đầu tiên Tần Thủy Hoàng đi thị sát trong thiên hạ. Trước đó nhà vua này từng đi thị sát bốn lần. Lần thứ nhất cách đây mười năm về trước, tức vào năm Tần Thủy Hoàng thứ 27 ( cũng tức là năm 220 Tr. CN). Lúc bấy giờ vua Tần vừa thống nhất toàn quốc, chuẩn bị đi thị sát ở vùng tây bắc Quan Trung và vùng biên giới phía trong Trường Thành. Nhà vua xuất phát từ Hàm Dương, đi về hướng tây bắc quận lỵ của quận Bắc Địa, rồi lại chuyển sang phía tây đi tới Kê Đầu sơn, lại quay trở lại về đi đến quận lỵ của quận Lũng Tây, sau đó thì trở về Hàm Dương. Qua năm sau thì nhà vua lại bắt đầu chuyến thị sát lần thứ hai. Lộ trình của chuyến đi này rất dài, phía đông tới Hàm Cốc Quan, qua Lạc Dương đến Trần Lưu nằm về hướng đông nam kinh đô cũ của nước Nguỵ là Đại Lương. Sau khi tới Định Đào chỗ hai con sông Tế Thủy và Hà Thủy gặp nhau, rồi lại lên núi Trâu Dịch và đi núi Thái Sơn để cử hành lễ phong thiện, sau đó mới tiếp tục đi Lâm Trì, tới khu Thành Sơn ở phía đông. Từ đó nhà vua quay về Chi Phù, rồi tới Lang Nha, lại từ Lang Nha lên đường tới Bành Thành. Sau đó nhà vua đi thị sát vùng đất Sở ở phía nam, và gần như đi khắp vùng lãnh thổ của nước Sở từ đông sang tây, cuối cùng lại từ Nam quận lên bộ đi theo đường Đạo Võ Quan trở về Hàm Dương. Lần đi thứ ba vào năm Tần Thủy Hoàng thứ 29 (tức năm 218 Tr. CN). Nhà vua lại xuất phát từ Hàm Dương đi tới Hàm Cốc Quan ở phía đông, vượt qua Dương Võ, Bộc Dương, Lâm Tri, Chi Phù, Lang Nha rồi trở lại con đường cũ để đi qua Lâm Trí, Bình Nguyên Tân, Cự Lộc, Hoàn Sơn, Hàm Đan, Lô Quan, Thượng Đảng, An Ấp, Bồ Châu Tân, rồi trở về Hàm Dương. Lần đi thứ tư vào năm 32 (tức năm 215 Tr. CN). Sau khi từ Hàm Dương đi đến Hàm Cốc Quan ở phía đông rồi đến Mạnh Tân, vượt qua sông Hoàng Hà đến quân Hà Nôi, sau đó tiếp tục đi tới Kiệt Thạch và từ Kiệt Thạch đi thị sát vùng biên cương ở phía bắc. Tiếp đó, nhà vua từ quận Vân Trung vượt qua sông Hoàng Hà xuống phía nam, đi ngang Thượng Quận trở về Hàm Dương.
Trong vòng mười năm ngắn ngủi, Tần Thủy Hoàng đã đi thị sát với quy mô rộng lớn như thế không phải vì nhà vua muốn du sơn ngoạn thủy, mà là muốn tuyên dương thanh thế của một vị hoàng đế, mở rộng ảnh hưởng chính trị, vừa trấn áp tinh thần vừa xoa dịu những thế lực tàn dư của quý tộc sáu nước cũ. Vì nhà vua biết rằng sáu nước tuy đã bị tiêu diệt, nhưng lực lượng chống đối vẫn còn chưa xoa bỏ hẳn, nhóm quý tộc của họ không cam tâm làm một thường dân của nước Tần. Do vậy, nhà vua không tiếc tốn phí một số lượng lớn nhân lực tài lực, không ngại đường xa nhọc nhằn, đã tổ chức một đội ngũ thị sát hết sức khổng lồ, gần như đi khắp tất cả những vùng đất cũ của sáu nước trước kia. Đó là một sự thể hiện sức mạnh, và cũng là một cách tuyên truyền tốt nhất. Theo dọc đường, nhà vua nhiều lần đến các danh sơn, các sông lớn, để chứng tỏ rằng mình là người được trời ban cho thần quyền, nên việc thống trị toàn quốc là điều tự nhiên. Trong những lần tuần du nói trên, nhà vua còn cho khắc bia đá, để khoe khoang mình và áp đảo tinh thần của những kẻ chống đối. Trong lời văn của các bia đá đã nói lên sự tàn bạo của sáu nước cũ trước kia, từng mang đến cho nhân dân bao nhiêu tai hoạ, cho nên tiêu diệt sáu nước là để chấm dứt tai họa cho dân, chấm dứt những cuộc chiến tranh liên miên bất tận, nói rõ việc thống nhất quốc gia, thống nhất chế độ, chữ viết, phong tục, pháp lệnh có thể giúp cho nhân dân được hòa bình và giàu có, người người tự lo việc làm ăn của mình. Trong lời văn khắc trên bia còn nói rõ việc xóa bỏ hủ tục, xây dựng tập quán mới là có ích cho việc ổn định trật tự xã hội. Nội dung của những tấm bia đá này đã thể hiện ý chí của Tần Thủy Hoàng, thể hiện quốc sách vủa vương triều nhà Tần, và cũng nói lên mục đích chân thật trong việc đi thị sát của nhà vua.

Giờ đây nhà vua tiến hành chuyến đi thị sát lần thứ năm. Nhà vua và đoàn tùy tùng khởi hành tại Hàm Dương từ đầu tháng 10 (Tần lấy tháng 20 làm tháng đầu tiên của năm). Đến tháng 11 thì tới Vân Mông, và tổ chức lễ cúng tế vua Thuấn đã chết ở núi Cửu Nghi tại một địa điểm gần đầm Vân Mông, rồi mới đáp thuyền xuôi theo sông Trường Giang đi xuống, đến Đương Dương thì lên bờ, sau đó đến sông Tiền Đường để xem thủy triều, một kỳ quan của con sông này. Nhà vua từ Tiền Đường tiếp tục đi đến bến đò Hiệp Trung để vượt sông Phú Xuân, sau đó lên núi Hội Kê để tế vua Vũ. Trên đường trở về Hàm Dương nhà vua từng đến Ngô huyện. Trước đó các quan viên địa phương tại Ngô huyện đã đốc thúc nhân dân lo việc "cung nghinh" đến kiệt sức vì mỏi mệt: người dân phải gánh đất vàng mới đem trải trên mặt đường, phải kiểm tra và gia cố tất cả các cây cầu, phải sơn phết trang trí nhà cửa hai bên đường đi, tất cả mọi nhà đều phải quyên tiền để chi cho công việc làm nói trên, còn những người trai tráng khoẻ mạnh phải đi làm xâu không công, khiến bá tánh đều rất khổ sở, tiếng than oán đầy đường.
Ngày xa giá của hoàng đế tới thì tất cả mọi sự chuẩn bị đều phải hoàn thành. Do lòng hiếu kỳ thôi thúc, bá tánh đau nhau kéo ra vệ đường, đứng xa xa để nhìn. Hạng Võ từ xưa tới nay chưa từng thấy Tần Thủy Hoàng cho nên ngày hôm đó cũng rủ người chú của mình là Hạng Lương đi xem. Họ chen chúc giữa đám đông cũng giống như mọi người khác.
Dẫn đầu là đội kỵ binh và đội nghi trượng. Vũ khí của họ che khuất cả mặt trời, áo giáp của họ sáng ngời dưới ánh nắng, trông thật uy phong lẫm liệt. Đội ngũ đông đảo đó đi cả một tiếng đồng hồ mới qua khỏi, và cuối cùng là ba mươi sáu chiếc xe đặc biệt của hoàng đế, các quan viên đi theo chuyến thị sát này gồm có tả thừa tướng Lý Tư, trung xa phủ lệnh Triệu Cao, ngoài ra còn có đứa con nhỏ mà Tần Thủy Hoàng rất yêu mến là Hồ Hợi. Riêng hữu thừa tướng là Phùng Khứ Tật thì ở lại Hàm Dương để lưu thủ.
Chiếc xe đặc biệt của Tần Thuỷ Hoàng do sáu con ngựa kéo, mui xe được trang hoàng bằng vàng và bạc, trên màn che có vẻ dấu hiệu mặt trời, mặt trăng. Tần Thủy Hoàng đầu đội vương miện có tua, mình mặc áo cẩm bào, ngồi ngay ngắn trông hết sức uy nghiêm đáng sợ. Nhưng, sắc mặt của nhà vua có vẻ mệt mỏi, tinh thần có vẻ căng thẳng. Trước đấy mấy hôm, khi xem thủy triều ở sông Tiền Đường, do gió mạnh, sóng to đã làm cho Tần Thủy Hoàng có cảm giác đây là điềm bất tường. Nhà vua chợt nhớ lại trong chuyến đi thị sát tám năm về trước đã gặp phải một sự nguy hiểm mà đến nay vẫn còn thấy ghê sợ. Đó là khi cỗ xe của nhà vua đi tới Bác Lăng Sa thuộc huyện Dương Võ, và khi cỗ xe đang chạy trên đường, thì bỗng từ trong núi đá bên vệ đường có một trái chùy to bằng sắt bay ra và đánh trúng mui xe đi kèm theo. Sau một tiếng "ầm", mui xem bị đánh thủng một lỗ to, và trái chùy sắt đã rơi thẳng vào trong xe. Tình hình đó làm cho Tần Thủy Hoàng hết sức sợ hãi, cũng may là nó đánh trúng một cỗ xe phụ đi kèm, nếu đánh trúng cỗ xe của nhà vua thì không biết tính mạng của nhà vua sẽ ra sao? Nhà vua kêu to thất thanh: "Có thích khách!", đồng thời ra lệnh cho thị vệ đuổi bắt nhưng không hề bắt được ai. Tiếp theo sau đó là một cuộc lục soát trên mười ngày trong cả nước, nhưng vẫn không có kết quả gì. Về sau mọi người mới biết đó là do Trương Lương thuê một lực sĩ để hành thích Tần Thủy Hoàng. Nhưng Trương Lương thì đã trốn đi biệt tăm biệt tích từ lúc nào.
Qua bài học hành thích nói trên, chung quanh cỗ xe của Tần Thủy Hoàng trong chuyến đi này đã tăng cường thêm nhiều thị vệ, canh phòng rất cẩn mật. Thế nhưng trong lòng Tần Thủy Hoàng vẫn phập phồng lo sợ. Nhà vua cố giữ vẻ uy nghiêm bất khả xâm phạm, nhưng một mặt khác thì luôn đưa ánh mắt quan sát đám đông đứng hai bên vệ đường, cảnh giác mọi bất trắc có thể xảy ra.
Riêng bá tánh đứng xem đều trố đôi mắt hiếu kỳ nhìn đội nghi trượng của hoàng gia. Thỉnh thoảng còn nghe có tiếng tặc lưỡi của người ít có dịp nhìn thấy sự dàn binh bố trận uy nghiêm và xa hoa lộng lẫy. Họ chưa bao giờ được chứng kiến đội nghi trượng của hoàng gia và nhất là chưa bao giờ được nhìn thấy mặt Tần Thủy Hoàng, một vị vua uy danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Tất nhiên, cũng có người lén thì thầm bàn tán, nhắc lại những hành động tàn bạo của Tần Thủy Hoàng, cũng như những mẩu chuyện vui về ông.

Khi ánh mắt của Hạng Võ chăm chú nhìn cỗ xe của Tần Thủy Hoàng, và từ từ nhìn đến chiếc vương miện có tua và khuôn mặt xa lạ nhưng trong thâm tâm đã tưởng tượng từ lâu của nhà vua, thì ông cảm thấy một luông máu nóng từ dưới dâng lên, khiến ông suýt nữa ngạt thở, trong khi đôi mắt thì sáng quắc như nẩy lửa. Sắc mặt của ông bị tái xanh, hai hàm răng cắn chặt, đôi môi tím ngắt đến rướm máu. Đây phải chăng là tên bạo chúa đã mang đến cho nước Sở cũng như cho gia tộc họ Hạng cảnh nước mất nhà tan? Đây có phải là tên hung thủ đã từng giết chết ông nội và bao nhiêu tướng sĩ của nươc Sở? Đây có phải là Doanh Chính đã phá hoại cuộc sống tốt đẹp của họ và khiến cho họ ngày nay phải lưu lạc khắp nơi? Ông cảm thấy bánh xe đang lăn nhanh trên mặt đường như đang nghiến lấy quả tim của mình, khiến vết thương trong lòng ông đau nhói. Niềm uất hận tích tụ từ lâu trong lòng như đang chạm mạnh vào từng sợi thần kinh khiến cho ông cảm thấy vừa miệt thị vừa phẫn nộ đối với vua Tần. Bất giác ông rít qua kẻ răng: "Ta có thể giết nó để thay thế!"
Lúc bấy giờ có một bàn tay to lớn vội vang bụm lấy miệng ông. Hạng Lương nói khẽ bên tai người cháu: "Đừng lên tiếng, bị giết cả họ đấy!" Hạng Võ chừng như không để ý tới lời cảnh báo của người chú, vẫn siết chặt hai quả đấm, vẫn tròn xoe đôi mắt, nhìn theo bóng dáng cỗ xe của nhà vua cho tới khi nó đã đi thật xa.
Đội xe ngựa khổng lồ đã đi qua, nhưng hận thù vẫn còn âm ỉ. Ngọn lửa ngầm đang chuyển động dưới lòng đất, chắc chắn rồi đây sẽ có ngày nó bùng lên để đốt cháy tất cả mặt đất đang phủ đầy cỏ khô!
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét