Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Tây Sở Bá Vương Hạng Võ 15

Trang 15 trong tổng số 26

Chương 10 (C)
Được đàng này mất đàng nọ

Những cuộc chiến loạn ở phía đông làm cho Hạng Võ bị vướng víu rất nhiều. Tây Sở Bá Vương cho rằng thiên hạ đã thái bình, nên không khỏi ngạc nhiên khi thấy việc cắt đất phong hầu không thể mang đến một cục diện ổn định được. Ông bắt đầu thoát ra khỏi tình trạng say sưa trước thắng lợi và hòa bình, tập trung sự chú ý nhìn về các nước chư hầu ở phương đông. Nhưng, tình hình trên đối với Hán Vương Lưu Bang đang ở Nam Trịnh lại chính là một cơ hội tốt. Trung tâm quyền lực ở Nam Trịnh bắt đầu có những sự trù hoạch sôi nổi. Cuộc dòng tiến vốn chờ đợi đã lâu nay bắt đầu.
Hàn Tín kể từ khi được cử làm đại tướng, luôn nghĩ tới cái ơn tri ngộ của Lưu Bang, quyết tâm đem hết sức mình ra báo đáp. Ông đã nhận thấy một cách nhạy bén là cuộc chiến tranh giữa Tề và Sở sẽ không sao tránh khỏi. Trong khi đó thì Tái Vương Tư Mã Hân, Trác Vương Đổng Ế, Ung Vương Chương Hàm mà Hạng Võ dùng để ngăn chặn Lưu Bang tại vùng Tam Tần vẫn chưa đứng vững chân. Trái lại, các tướng sĩ của quân Hán thì đang tha thiết muốn trở về phía đông. Trước tình hình đó, trung tâm quyền lực ở Nam Trịnh bèn chủ trương xua quân tiến về phía đông để tranh đoạt thiên hạ. Lưu Bang hoàn toàn tán thành chủ trương đó, cho nên đã hỏi Hàn Tín về kế hoạch đông tiến. Hàn Tín đáp:
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

- Hạng Vương phái ba Tần Vương trấn thủ vùng Quan Trung, rõ ràng có dụng ý muốn nhốt đại vương ở Hán Trung. Đại vương muốn tiến về phía đông thì trước tiên phải đột phá vùng Quan Trung, rồi sau đó sẽ tấn công Bành Thành. Ba Tần Vương nguyên là tướng lãnh của nước Tần cũ. Họ chỉ huy con em của nước Tần đã nhiều năm. Số bị trận vong cũng như số bỏ trốn đông không biết bao nhiêu mà kể, Hạng Vương chôn sống và sát hại hai chục vạn hàng quân của nước Tần ở Tân An, nhưng không giết ba người đó, nay lại phong vương, cho nên người Quan Trung căm thù họ đến tận xương tủy. Đại vương từ Võ Quan tiến vào Hàm Dương không hề đụng chạm gì tới người dân, lại tuyên bố ba chương ước pháp, rất đắt nhân tâm, cho nên bá tánh ở đất Tần đều hy vọng đại vương sẽ xưng vương tại Quan Trung như lời giao ước của Sở Hoài Vương. Qua đó cho thấy, nếu mở cuộc tấn công vào Tam Tần, thì sẽ được lòng dân.

Hơn nữa, tướng sĩ của ta đèu là người vùng Sơn Đông, ngày đêm mong chờ được trở về phía đông, cho nên nếu chiến đấu ngoài mặt trận thì một người của quân ta có thể đối đầu với mười tên quân địch, sĩ khí của quân ta rất tốt. Qua đó cho thấy, nếu xua quân đông tiến thì chỉ có thắng lợi chứ không có thất bại. Trong số ba Vương tại Tam Tần, thì Ung Vương Chương Hàm là mạnh nhất. Nếu đánh bại được Chương Hàm thì hai vương khi không cần đánh cũng tự tan rã.
Hàn Tín lại đề xướng sách lược tấn công là "Minh tu Sạn Đạo, ám độ Trần thương" (công khai cho sửa chữa sạn đạo, nhưng bí mật tiến quân theo đường Trần thương), tức phái một bộ phận binh sĩ công khai đi sửa chữa lại đường sạn đạo mà trước kia đã bị đốt bỏ, làm ra vẻ như sẽ dùng con đường này để xuất quân, đánh lạc hướng Chương Hàm. Đồng thời, dẫn quân chủ lực tiến theo con đường Trần thương, để xuất kỳ bất ý đánh vào Chương Hàm.
Lưu Bang nghe qua, không ngớt lời khen hay, và tức khắc điều binh khiển tướng, tiến hành bố trí mọi việc đúng theo kế hoạc nói trên: ra lệnh cho thừa tướng Tiêu Hà ở lại giữ Nam Trịnh, vỗ yên bá tánh, củng cố hậu phương, đồng thời, lấy thu nhập từ thuế khóa của hai địa phương Ba và Thục để bảo đảm cho việc hậu cần của đại quân. Ông ra lệnh cho tướng quân Tào Sâm cùng lang trung Phàn Khoái làm tiên phong, để chỉ huy mấy vạn quân; đại tướng quân Hàn Tín dẫn tướng quân Châu Bột, Thái bộc Hạ Hầu Anh chỉ huy mười vạn quân được xem là bản đội. Lưu Bang dựa theo sự bố trí đó bắt đầu mở cuộc tấn công vào Tam Tần.
Từ Hán Trung muốn tiến vào Quan Trung có ba con đường: con đường thứ nhất là đường Tí Ngọ, đường thứ hai là đường Đăng Lạc, đường thứ ba là đường Bao Tà. Trong những cuộc chinh chiến thời trước, hầu hết quân đội đều sử dụng con đường Bao Tà, và xem đó là con đường chủ yếu, còn hai con đường kia chỉ là thứ yếu. Lúc Lưu Bang kéo quân vào Hán Trung, đã đốt bỏ tất cả sạn đạo mà quân đội của ông vừa đi qua: đó là con đường Bao Tà. Lần đông tiến này thống soái Hàn Tín đã thay đổi hướng đi. Ông không đi theo con đường Bao Tà, mà chỉ phái một bộ phận quân đội đến đó sửa chữa sạn đạo, để đánh lạc hướng đối phương, trong khi ông lại chọn con đường Cố Đạo vốn đã bỏ phế nhiều năm để tiến quân. Quân tiên phong của Phàn Khoái sau khi tới Tây huyện nằm về phía bắc Bạch Thủy, thì đi ngược lên đầu nguồn của con sông này để đến huyện Cố Đạo nằm dưới chân núi Cố Đạo Sơn, rồi từ đó mới tiến tới con đường Trần Thương tại vùng phụ cận. Trong khi tiến quân theo con đường trên họ dễ dàng tránh khỏi sự ngăn chặn của Ung quân, để bất ngờ xuất hiện trên cong đường Trần Thương nằm giữa Quan Trung và Hán Trung.

Trong khi quân Hán tiến hành việc sửa chữa sạn đạo, Ưng Vương Chương Hàm cảm thấy rất khó hiểu. Ông ta nghĩ bụng: con đường sạn đạo hiểm yếu dài hơn ba trăm dặm thật khó sửa chữa, vậy quân Hán làm sao có thể hoàn thành được trong một thời gian ngắn? Cho nên ông ta hoàn toàn không có sự phòng bị nào cả. Mãi tới khi quân Hán mở cuộc kỳ tập tại Trần Thương, ông ta mới bừng hiểu ra, vội vàng lo việc chống trả. Hai quân Ưng Hán đã mở một trận đánh tại vùng phụ cận Trần Thương. Quân Chương Hàm dùng loại xe nhẹ để dàn trận, bị quân Hán do Phàn Khoái dẫn đầu đánh bại. Lúc bấy giờ quân CHương Hàm chỉ có mấy vạn người, tự biết mình yếu thế hơn nên buông bỏ Ưng thành rút lui đến Phế Khâu, Hảo Chỉ, đóng dài tới bờ bắc sông Vị nằm về phía đông. Chương Hàm tự mình nắm giữ Phế Khâu, phái tướng lãnh Chương Bình giữ Hảo Chỉ, để chờ đợi viện quân của Tái vương và Trác vương tới chung sức chống lại quân Hán. Quân Hán phán đoán Phế Khâu là chủ lực của quân Ưng, nên tạm thời ngưng việc tấn công và phái tiên phong Tào Sâm, Phàn Khoái đuổi gấp theo Chương Bình, đánh bại cánh quân này tại phía nam thành Hảo Chỉ. Chương Bình lui về thủ Hảo Chỉ, quân Hán liền kéo tới bao vây. Lúc bấy giờ Tái Vương Tư Mã Hân phái tướng quân Triệu Bôn kéo quân đi chi viện Phế Khâu, còn Trác Vương Đổng Ế thì cấp tốc kéo về hướng sông Kinh Thủy. Sau khi Chương Hàm được Triệu Bôn tới chi viện, bèn men theo bờ bắc sông Vị, tiến lên đánh nhau với quân Hán tại một địa điểm ở gần Nhưỡng Hương. Đó là một trận giao phong giữa hai quân chủ lực. Tào Sâm, Phàn Khoái đang bao vây Hảo CHỉ cũng kéo quân tới tham gia trận đánh lớn này. Số quân của Triệu Bôn bị đánh ép vào giữa, nên bị đại bại. Sau khi Lưu Bang bình định được địa bàn do Ưng Vương cai quản, liền tiến quân về phía đông, chọc thẳng vào Hàm Dương. Chương Hàm cuối cùng đã triệt thoái đến Phế Khâu, bị quân của Lưu Bang kéo tới bao vây, đồng thời, phái một số tướng lãnh đi đánh chiếm những thành ấp khác. Tái Vương Tư Mã Hân, Trác Vương Đổng Ế biết không thể chống trả nổi trước quân Hán, nên đã lần lượt đầu hàng, còn Chương Hàm sau khi thành Phế Khâu bị đánh chiếm, không còn con đường nào rút lui nên đã tự sát. Như vayaj, chỉ mất có một tháng, Lưu Bang được sự tham mưu xuất sắc của đại tướng quân Hàn Tín, chiếm lãnh hết khu vực Tam Tần của Hạng Võ dùng để ngăn chặn quân Hán, đặt một nền tảng vững chắc để tiến quân vào Trung Nguyên.
Sau khi Lưu Bang chiếm lĩnh hoàn toàn vùng đất Tam Tần, ông cho xây dựng vùng đất này thành ba quận Vị Nam, Hà Thượng, Thượng Quận, đồng thời, phái các tướng Tiết Âu, Vương Hấp kéo quân ra Võ Quan, với Vương Lăng làm hướng đạo, đã đón được người cha và bà vợ của Lưu Bang là Lưu Chấp Gia và Lữ Trĩ vào Quan Trung.

Hạng Võ ở tại Bành Thành nghe tin Quan Trung bị thất thủ thì vừa kinh ngạc, vừa tức giận. Khi Lưu Bang mới vào Hán Trung, Hạng Võ đã tin theo lời báo cáo của Trương Lương, cho rằng Lưu Bang không có ý định tiến về phía đông, nên hoàn toàn không có sự phòng bị nào cả. Thế nhưng, chỉ sau ba tháng Lưu Bang đã bình định được vùng đất Tam Tần, chiếm được Quan Trung, đó là điều ngoài sự dự liệu của Hạng Võ. Do quá phẫn nộ nên Hạng Võ đã phái một đạo binh mã phong tỏa Dương Hạ, ngăn chặn không cho nhóm người của Vương Lăng tiến về hướng huyện Bái. Hạng Võ còn biết thêm Vương Lăng là người huyện Bái, trước kia từng tụ tập mấy nghìn người, đóng giữ Nam Dương, và hiện nay đã kéo quân quy hàng Hán Vương. Thế là Hạng Võ cho người đi bắt bà mẹ của Vương Lăng đem giam vào doanh trại của quân đội. Khi Vương Lăng phái một sứ giả đến nơi, được Hạng Võ mời ngồi vào ghế thượng khách, quay mặt về phía đông tỏ ý muốn Vương Lăng thay đổi thái độ, rời bỏ Lưu Bang. Nhưng, do bởi Hạng Võ không chú ý tới việc tranh thủ lòng dân, khiến bá tánh không ai ủng hộ ông ta, mà bà mẹ của Vương Lăng là một trong số đó. Bà rơi lệ nói riêng với người sứ giả do Vương Lăng phái tới:
- Xin nói lại với Lăng nhi của tôi, là nó phải phụng sự thật tốt đối với Hán Vương. Hán Vương là một vị trưởng giả nhân hậu, rồi đây sẽ có ngày thống nhất được cả thiên hạ, đừng vì tôi mà có lòng phản lại Hán Vương. Tôi đã già rồi, mạng sống này không có chi đáng tiếc, vậy tôi bằng lòng lấy cái chết để tiễn đưa ngài!
Nói dứt lời, bà tuốt gươm của sứ giả đang đeo bên cạnh sườn để tự sát.

Cái chết của mẹ Vương Lăng làm cho Hạng Võ cảm thấy thật là khó hiểu. Ông không thể nào hiểu nổi tại sao một bà già bình thường như vậy, mà cũng có lòng hướng về Lưu Bang, không tiếc mạng sống của mình, sẵn sàng chết cho ông ta? Ông không làm sao nghĩ được rằng, chính chủ nghĩa phục thù, đại tàn sát của ông đã làm cho nhân dân thán oán, cũng như do ông không biết dùng người, không biết chăm sóc đến đời sống của nhân dân, nên không được nhân dân ủng hộ. Điều đó đối với ông thật là đáng buồn. Ông chỉ tin ở sức mạnh của mình có thể chinh phục được hết tất cả, nhưng lại không biết sức mạnh thật sự lại chính là ở bá tánh, nhân dân trong khắp đất nước! Một điều làm cho mọi người càng đáng tiếc hơn, đó là Hạng Võ không thể rút ra được kinh nghiệm trong những bài học đó để thay đổi chính sách của mình, trái lại, cho là cái chết của bà mẹ Vương Lăng chỉ là một sự phản kháng đối với mình là Tây Sở Bá Vương đang ngồi ở trên cao. Sự kiện đó làm cho ông phẫn nộ, giống như ông bị một sự sỉ nhục nặng nề. Ông ra lệnh đem xác bà mẹ Vương Lăng bỏ vào chảo nước xôi nấu đến rục xương để hả cơn giận trong lòng. Hành động đó, đưa Hạng Võ tiến bước thêm một bước dài đầy nguy hiểm nữa trên con đường sai lầm của mình.
Lúc ban đầu, khi Hạng Võ cắt đất phong hầu, đã phong cho Hàn Thành làm Hàn Vương, định đô tại Dương Trác. Nhưng Hàn Vương Thành sau một thời gian dài vẫn không đến Dương Trác để thành lập quốc gia. Lúc đó Trương Lương tuy được phong làm tướng quốc của nước Hàn, nhưng nhiều lần đến làm việc cho Lưu Bang. Riêng Hạng Võ cũng hoài nghi lòng trung thành của Hàn Vương đối với mình, nên không để cho Hàn Vương Thành được tới đất phong, mà uy hiếp và buộc ông ta phái tới Bành Thành. Trương Lương sau khi tống biệt Lưu Bang tại Bảo Trung, được tin Hàn Vương đang có mặt tại Bành Thành, nên không đến đất Hàn mà đến Bành Thành để gặp Hàn Vương. Dòng tộc của Trương Lương từng làm tướng quốc năm đời, cho nên Trương Lương đối với Hàn Vương luôn luôn tỏ lòng trung thành. Để phục hưng nước Hàn, ông quyết tâm phò tá Hàn Vương, đồng thời ông cũng không bao giờ quên sự nghiệp của Lưu Bang. Ông biết tin Hạng Võ sắp sửa xua quân đánh Lưu Bang, trong lòng hết sức lo sợ, bèn viết thư dâng lên cho Hạng Võ, nói: "Hán Vương do bị mất tước phong trước kia nên mới dẫn quân tiến ra phía đông. Ông ấy chẳng qua muốn được vùng đất Quan Trung như lúc ban đầu Sở Hoài Vương đã hứa hẹn, nay đạt được mục dích rồi, thì ông ta tuyệt đối sẽ không tiến về phía đông nữa. Hán Vương thực ra không đáng lo ngại, mà sự liên hợp giữa Tề và Triệu mới là một sự nguy hiểm to lớn nhất, vậy Đại Vương nên nhanh chóng tiêu diệt sự phản bội của Tề và Triệu." Trương Lương đã đánh lạc hướng Hạng Võ, còn dâng lên cho Hạng Võ một số văn thư về hoạt động phản bội của Điền Vinh của Bành Việt trên lãnh thổ của nước Ngụy. Hạng Võ tin lời nói của Trương Lương là thật, bèn tạm gác việc tiến quân về phía tây để đánh Lưu Bang, mà quyết định tiến quân lên phía bắc để đánh Điền Vinh và nước Tề.
Hàn Vương Thành thấy Hạng Võ sắp sửa rời khỏi Bành Thành, bèn nhân cơ hội đó yêu cầu Hạng Võ cho ông ta trở về đất phong của mình. Hạng Võ có lòng nghi ngờ rất nặng, sợ Hàn Vương Thành phản bội nên trước tiên giáng ông ta xuống chức Hầu, sau đó giết chết ông ta rồi phái Trịnh Xương, một người từng làm Huyện lệnh của huyện Ngô đi làm Hàn Vương. Sau khi Hàn Vương Thành chết, Trương Lương trốn khỏi Bành Thành, tới Quan Trung nương tựa Lưu Bang. Lưu Bang thấy Trương Lương nhiều lần hiến kế tốt cho mình, nên đã nhiệt tình tiếp nhận ông, phong làm Thành Tín Hầu, đồng thời, vì thấy ông sức khoẻ kém thường bị bệnh, nên cho ông ở sát bên cạnh mình để đóng góp mưu lược.

Việc Hạng Võ nghi ngờ giết chết Hàn Vương Thành, đã làm cho Trương Lương bỏ chạy sang quân Hàn, hơn nữa, do cả tin lời nói của Trương Lương nên đã kéo quân đi đánh Điền Vinh trước, mà không tiếp tục đề phòng đối với Lưu Bang, tạo một cơ hội tốt cho Lưu Bang tiến về phía đông. Điền Vinh sau khi cắt đất phong hầu tại Hí Hạ được vài ba tháng, thì đã chiếm lĩnh vùng đất Tam Tề. Kế đó, Điền Vinh lại phái Bành Việt kéo quân xuống Tế Âm để tấn công Sở và để đánh bại Tiêu Công Giác đang chỉ huy quân Sở kéo tới nghênh chiến. Hạng Võ thấy Điền Vinh uy hiếp đến mình ngày càng nặng nề hơn, lại tin theo lời khuyên có mục đích đánh lạc hướng của Trương Lương, nên đã quyết định đánh Tề. Đầu năm 205 Tr. CN, Hạng Võ đích thân chỉ huy đại quân mở cuộc tấn công Thành Dương, đồng thời, yêu cầu Cửu Giang Vương Anh Bố điều động binh lực tới hiệp trợ. Anh Bố giả bệnh không trực tiếp đưa quân đi, mà chỉ phái có năm nghìn người đi theo Hạng Võ. Trong khi Hạng Võ mở cuộc tấn công thì Bành Việt vừa đánh vừa lùi lên phía bắc để tránh sự va chạm trực tiế với Hạng Võ. Riêng Điền Vinh lúc bấy giờ đã giúp Trần Dư đuổi được Thường Sơn Trương Nhĩ, cũng xua đại quân tiến xuống phía nam đón đánh Hạng Võ. Quân của Tề và Sở đã mở cuộc trận đại chiến tại Thành Dương.
Lúc bấy giờ binh lực của Điền Vinh có khoảng mười vạn, vì mới vừa đứng vững chân tại đất Tề, binh sĩ lại thu gom từ nhiều nơi, sức chiến đấu rất yếu, cho nên, quân của Điền Vinh đã nhanh chóng bị sự tấn công toàn lực của Hạng Võ bóp nghẹt phải bỏ chạy lên phía bắc. Vì quân Hạng Võ bám sát theo sau không buông tha, nên Điền Vinh không thể vượt sông đến Lâm Tri ở phía đông, buộc phải lui đến huyện Bình Nguyên, kết quả bị người địa phương giết chết. Sau khi Hạng Võ xua quân tới huyện Bình Nguyên, thì cũng giống như khi ông ta xua quân vào thành Hàm Dương, thả lỏng cho binh sĩ thẳng tay phá hủy thành trì và nhà dân, chôn sống hàng binh của Điền Vinh, cướp giật, bắt phụ nữ, đem nhốt những người già và trẻ con, tiến hành trả thù một cách điên cuồng. Quân Hạng Võ lại tiến đến vùng Bắc Hải, những nơi nào họ đi qua đều bị hủy diệt toàn bộ. Hạng Võ mặc dù là người có sức khoẻ phi thường, võ nghệ cao siêu, tác chiến dũng mãnh, bố trận nghiêm chỉnh, tiến quân thần tốc, nhưng ông là người quá buông lỏng đối với quân đội của mình, không có kỷ luật nghiêm minh, đặc biệt là bọn binh sĩ được ông thả lỏng, không hề biết thương dân, đối xử với người dân một cách hung tàn bạo ngược, thẳng tay chém giết đốt phá. Một khi đánh chiếm được một ngôi thành hoặc một vùng đất nào, chúng mặc tình muốn làm gì thì làm, trở thành một thứ quân đội không ra quân đội, cướp không ra cướp. Cho nên quân Sở sau khi vào đất Tề, thì giống như những con thú dữ, khiến cho đất Tề bị giày xéo khắp mọi nơi.
Nhân dân ở đất Tề đứng trước hành động bạo ngược của Hạng Võ đều hết sức uất hận, đua nhau tổ chức thành những toán võ trang để chống lại quân Sở. Người em trai của Điền Vinh là Điền Hoành cũng thừa cơ hội này tập hợp tàn quân của Điền Vinh được mấy vạn người, rồi bắt đầu đứng lên tại Thành Dương, liên hợp cùng Bành Việt, lợi dụng tâm lý thù hận của quân Sở của nhân dân đất Tề, tổ chức một cuộc kháng chiến toàn diện, khiến cho quân Sở của Hạng Võ từ đó sa lầy trên khắp đất Tề mà không rút chân ra được.
Trong khi đó thì Hán Vương Lưu Bang ở vùng Quan Trung lại tỏ ra rất chú ý đến việc chăm sóc cho người dân, khôi phục sản xuất, khiến quân đội của ông được đứng vững chân tại vùng Quan Trung, đồng thời, nhân lúc Hạng Võ đang bị sa lầy ở phía đông, Lưu Bang đã mở rộng được địa bàn. Lúc bấy giờ cho dùng Hạng Võ có một sức mạnh và lòng dũng cảm phi thường, có tài chỉ huy cao siêu, mà do thiếu năng lực tổ chức toàn cục, nên vẫn không thể thực hành được một sách lược đứng đắn, khiến cho ông ta khi quan tâm tới vùng phía đông thì lại không thể quan tâm tới vùng phía tây. Bá nghiệp mà ông ta từng kham khổ xây dựng, đang đứng trước một nguy cơ nghiêm trọng.

Chương 11 (A)
Cuộc chiến tranh đoạt Bành Thành


Phát tang và diệu kế đổi đầu
Sau khi bình định được Tam Tần, và chiếm được Quan Trung, Hán Vương Lưu Bang cảm thấy vui mừng khôn xiết, so với thời kỳ chịu lép ở Nam Trịnh, tâm trạng của ông hoàn toàn khác hẳn. Danh hiệu Quan Trung Vương là một danh hiệu mà Lưu Bang đêm ngày mơ ước, chỉ vì Hạng Võ ngang tàng hống hách, cho nên dù ông là người kéo quân vào Quan Trung trước nhưng vẫn không được phong vương. Đến nay, ông đã dựa vào sức mạnh của mình để cuối cùng tự xưng vương tại vùng đất Quan Trung rộng lớn này. Như vậy, thử hỏi ông không vui mừng sao được?

Lưu Bang là người ôm ấp chí lớn đã lâu, cho nên ông vẫn không hề thỏa mãn đối với tình trạng trước mắt, mà bắt đầu chú ý đến những mục tiêu mới. Dù có gian khó tới đâu ông cũng phải đạt cho kỳ được mục tiêu của mình, gặp thất bại cũng không hề nản chí. Có lẽ đó là một nhân tố giúp cho Lưu Bang được thành ông sau này. Hiện giờ Lưu Bang đang ở Quan Trung, nhưng lòng dạ của ông thì đang nghĩ tới Bành Thành. Mục tiêu mới của ông chính là Bành Thành, là vùng Quan Đông, tức toàn bộ đất nước mà Tần Thủy Hoàng đã có trước kia.
Lưu Bang là người có chí lớn những không bao giờ có ý nghĩ viễn vong. Ông suy nghĩ thực tế, đặc biệt là chú trọng tới việc tăng cường thực lực của mình, để đủ sức tranh đoạt với mọi đối thủ. Sau khi chiếm được Quan Trung, ông không nôn nóng tiến về phía đông, mà trước hết lo củng cố địa bàn đã có, rồi sau đó mới thực hiện những ý đồ lớn hơn. Ông biết lòng dân là yếu tố quan trọng, cho nên một mặt tiếp tục thi hành "ba chương ước pháp", mặt khác, cho soạn thảo ra nhiều luật lệ mới. Tháng 11 năm 205 Tr. CN, sau khi ông định đô tại Lịch Dương, đã tuyên bố nếu tướng nào ở trong tay có một vạn binh mã, và có đất rộng một quận mà chịu đầu Hán thì sẽ phong cho chức Vạn Hộ Hầu. Mệnh lệnh đó có sức thu hút rất mạnh, liên tiếp đã có người tới xin đầu hàng. Ngoài ra, ông còn xuống lệnh mở vùng đất mà vương triều nhà Tần trước kia dùng làm ngự uyển lâm viên, để cho bá tánh được vào đó khai khẩn canh tác. Ngoài ra, ông còn cho giảm thuế miễn thuế để khuyến khích sản xuất. Những luật lệ đó rất hợp lòng dân, lại có thể củng cố được vùng Quan Trung.
Việc xây dựng Quan Trung và việc mở rộng địa bàn gần như được Lưu Bang tiến hành cùng một lúc. Vì ông thấy Hạng Võ đang sa lầy trong cuộc chiến tranh với nước Tề, không có thì giờ chú ý tới phía tây, nên đã tạo ra một thời cơ tốt để ông có thể tiến về phía đông. Tháng 10, ông đích thân kéo quân tới khu vực Hàm Cốc Quan, và phái sứ giả đi chiêu dụ Hà Nam Vương Thân Dương. Đất phong vương của Thân Dương nguyên là đất cũ của nước Hàn, định đô tại Lạc Dương. Binh lực của Thân Dương rất ít, lại đang bị binh mã của Lưu Bang bao vây nên Thân Dương đành phải mở cửa thành ra đầu hàng Lưu Bang. Lưu Bang bèn đặt vùng đất này là quận Hà Nam. Cũng trong tháng đó Lưu Bang cử người cháu của Hàn Tương Vương là Hàn Tín giữ chức Hàn Thái Úy, và sai ông ta mở cuộc tấn công Hàn Vương Trịnh Xương chống cự không chịu đầu hàng. Qua trận đánh tại Dương Thành, Trịnh Xương bị đánh bại nên phải đầu hàng. Như vậy, hai vương mà Hạng Võ đã phong tại nước Hàn trước kia đều bị Lưu Bang tấn công tiêu diệt. Lưu Bang thấy Hàn Tín có công to nên lập làm Hàn Vương.

Sau khi Lưu Bang bình định được Hà Nam, thì vào tháng 3 mùa xuân năm đó lại xua quân tấn công Hà Bắc. Ông đích thân dẫn các tướng lãnh như Quán Anh, Tào Sâm từ Lâm Tấn Quan vượt qua sông Hoàng Hà tiến về phía tây để tấn công Ngụy Vương Báo. Ngụy Báo không đủ sức chống trả nên đã quy hàng Lưu Bang, đồng thời, cùng với quân đội của Lưu Bang mở cuộc tấn công vào Hà Nội của Ân Vương Tư Mã Ngang. Tư Mã Ngang hoàn toàn không ngờ Lưu Bang lại có thể mở cuộc tấn công nhanh chóng như thế, nên vừa không đề phòng lại vừa không có đủ sức để chống trả, đã trở thành tù binh của Lưu Bang. Vùng đất được phong của ông ta bị Lưu Bang lập thành quận Hà Nội.
Sự tiến triển nhanh chóng của Lưu Bang ở phía tây, làm cho Hạng Võ đang bị sa lầy tại nước Tề ở phía đông cảm thấy bất an. Ông ta rất tức giận các vương quốc được phong quá nhu nhược, và oán hận nhất là đối với Ân Vương Tư Mã Ngang, người đã đầu hàng. Vì Tư Mã Ngang từng có lần phản bội Hạng Võ, Hạng Võ phái Trần Bình là người Dương Võ đi thảo phạt. Trần Bình dùng áp lực khiến cho Tư Mã Ngang phải hối hận và thề sẽ theo Hạng Võ trở lại. Nhưng không bao lâu sau, Tư Mã Ngang lại phản bội một lần nữa, vậy thử hỏi Hạng Võ không tức giận sao được. Ông ta thề sẽ giết chết những tướng lãnh trước đó đã đi bình định nước Ân. Cho nên Trần Bình không khỏi sợ hãi. Trần Bình từng phụng sự cho Ngụy Vương Cửu ở Lâm Tế, giữ nhiệm vụ Thái Bộc, lo việc trông nom xe ngựa. Về sau, do bị người ta sàm tấu nên phải rời bỏ nước Ngụy chạy sang nước Sở, và được Hạng Võ phong tước Khanh, sau đó, do lôi kéo được Tư Mã Ngang làm phản quay trở về, nên Hạng Võ phong làm Đô Úy. Giờ đây nghe tin Hạng Võ muốn giết những tướng lãnh trước kia từng bình định nước Ân, Trần Bình quá sợ hãi. Để bảo toàn tính mạng cho mình, Trần Bình đem tất cả ấn quan và vàng do Hạng Võ phong cho trước kia trả lại hết cho Hạng Võ, rồi một mình một ngựa trốn sang quy hàng Lưu Bang. Lưu Bang cử Trần Bình làm Đô Úy, đồng thời cử ông giữ nhiệm vụ Thị Vệ Tham Thừa để chỉ huy Điền Hộ Quân, lo việc giám hộ cho các tướng.

Việc Trần Bình phản Sở quy Hán là do Hạng Võ không biết dùng người, nên mới bị mất nhân tài. Trần Bình tuy gia cảnh bần hàn, xuất thân hèn kém, nhưng là người rất thích học, có sự nghiên cứu sâu về Đạo giáo, giỏi mưu lược. Sau khi ông về với Lưu Bang, bèn đem tình hình nội bộ của quân Sở nói rõ cho Lưu Bang biêt, giúp Lưu Bang hiểu được hư thực của quân Sở. Từ đó trở về sau, ông lại dùng kế ly gián giữa Hạng Võ với các tướng tá ở chung quanh ông ta nên có một tác dụng phá hoại rất lớn trong việc Lưu Bang cuối cùng thắng Hạng Võ, công lao của Trần Bình không phải nhỏ. Về con người Trần Bình, trong sách sử đều ghi chép ông ta là một người khoẻ mạnh, đẹp trai, anh ruột của ông đối với ông rất tốt, tự mình đi làm ruộng để nuôi Trần Bình ăn học. Ông được một người nhà giàu tên là Trương Phụ tán thưởng, nên gả con gái cho. Trần Bình khi cưới được Trương Thị làm vợ, thì việc tiêu xài ngày càng được rộng rãi hơn, nhờ đó đã giao du rất rộng. Có một lần trong làng cúng thần, Trần Bình chủ quản việc cắt thịt chia cho mọi người, miếng nào miếng nấy đều bằng nhau. Các cụ già trong làng khen Trần Bình làm việc tốt, Trần Bình liền nói: "Một ngày nào đó tôi nắm quyền chia sẻ thiên hạ, thì toio cũng chia sẻ công bằng như việc chia thịt ngày hôm nay vậy!" Thời đó, những người trong làng cho rằng Trần Bình nói đùa, nhưng nào ngờ Trần Binh lại là người có chí lớn cho nên về sau ông ta đã giữ vai trò chia sẻ cả thiên hạ đúng như lời ông ta nói!
Trần Bình được xem là một nhân tài hiếm có, khá giỏi thao lược, chỉ đáng tiếc Hạng Võ không thể giữ được ông, mà đã để ông chạy sang hàng ngũ đối thủ của mình là Lưu Bang. Hạng Võ không biết thương tiếc nhân tài, nên đã làm cho sự nghiệp của mình bị nhiều tổn thất lớn lao.
Trước 4 tháng khi Trần Bình quy Hán, Hạng Võ đã làm một việc sai lầm khiến cho Lưu Bang có thể lợi dụng được. Vào tháng 10 năm 205 Tr. CN, Hạng Võ gởi một đạo mật lệnh đến cho Cửu Giang Vương Anh Bố, Hành Sơn Vương Ngô Nhuế, Lâm Giang Vương Cộng Ngao, để họ giết chết Nghĩa Đế trên đường đi tới huyện Sâm. Ba người này đã nhanh chóng hành động và đã kết thúc mạng sống của Nghĩa Đế trên một chiếc thuyền đi trên sông Trường Giang. Nghĩa Đế tuy là một ông vua không có quyền, nhưng nói cho cùng ông vẫn là cháu của Sở Hoài Vương, từng là thống soái của nghĩa quân. Hạng Võ biếm trích và giết ông ta, rõ ràng đã làm cho mọi người trong thiên hạ ai ai cũng bất mãn. Nhất là Lưu Bang đã chụp lấy sự kiện đó để tạo dư luận, tổ chức thành một lực lượng chống Sở.
Tháng 3 năm 205 Tr. CN, Lưu Bang từ Bình Âm Tân vượt qua sông Hoàng Hà để tiến xuống phía nam, khi tới Tân Thành tại Lạc DƯơng, thì có một người trông nom việc giáo hóa trong làng là Đổng Công chận đường ông lại, hỏi:
- Có phải Đại Vương đi đánh Hạng Vương hay không? Đại Vương chuẩn bị lấy gì để hiệu triệu?
Câu hỏi đó làm cho Lưu Bang không thể trả lời được. Đổng Công mỉm cười vuốt nhẹ hàm râu, làm ra vẻ như mình đã có sẵn mưu lược ở trong lòng, nói:
- Tôi nghe nói thuận lòng dân thì thắng, nghịch lòng dân thì bại. Đi thảo phạt người có tội cần phải có danh nghĩa, nếu không có danh nghĩa thì sẽ không thành công, cho nên cần phải vạch mặt bọn đạo tặc thì kẻ thù mới chịu khuất phục. Hạng Võ hung ác hiểm độc, không kể chi tới đạo nghĩa, nên đã giết chết nhà vua của ông ta là Nghĩa Đế. Đó là đại tội không thể khoan dung. Thực hành một chính sách cai trị nhân nghĩa, thì không cần dùng tới vũ lực thiên hạ cũng tự mình phục tùng; khi nói đạo nghĩa thì không cần tới vũ lực cả thiên hạ cũng sẽ được yên. Xin Đại Vương hãy cho tất cả binh sĩ của mình mặc đồ tang, và cử hành lễ phát tang cho Nghĩa Đế, rồi truyền rao cho tất cả các nước chư hầu, cùng đứng lên báo thù cho Nghĩa Đế. Như vậy là Đại Vương xuất xử, có danh nghĩa và sẽ được toàn quốc ngưỡng mộ đức hạnh, tranh nhau đứng lên hưởng ứng. Ba đời Hạ, Thương, Châu đã dùng cách này để dựng nghiệp đế vương!

Những lời nói của Đổng Công làm cho Lưu Bang bừng hiểu ra. Đối với việc Hạng Võ đuổi và giết chết Nghĩa Đế từ lâu ông đã canh cánh bên lòng; nay qua lời nói của Đổng Công, ông chợt nghĩ ra nếu cử hành lễ phát tang cho Nghĩa Đế, chẳng những thể hiện cái đức của mình trong thiên hạ, tạo dựng uy tín cho mình, mà còn có thể cổ xúy cho các nước chư hầu đứng lên chống Hạng Võ. Như vậy, không phải là nhất cử lưỡng lợi hay sao? Thế là ông mạnh dạn hứa hẹn với Đổng Công, sẽ bắt tay vào việc cử hành nghi thức phát tang một cách long trọng.
Việc tang lễ của một bậc đế vương là đại sự của đất nước, từ xưa cho tới nay bao giờ cũng được xem trọng. Lưu Bang dựa theo nghi lễ đời xưa, chuẩn bị một cỗ quan tài bằng gỗ tử, bên ngoài quan tài được vẽ hoa văn nghiêm túc, trang trí bằng châu ngọc quí giá và có cả đồ dùng hằng ngày để tùy táng. Ngày đưa tang ông đặt linh cữu lên cỗ xe "Ôn Lương" (loại xe có chỗ nằm và cũng dùng làm xe đưa tang thời cổ), lại có nhà vàng, có xe phối phó. Những nơi xe tang đi qua, bên vệ đường có đặt nhiều hương án. Lưu Bang huy động nam nữ bá tánh cùng nhau khóc to, và bố cáo khắp thiên hạ, chư hầu có thể đến đưa tang, nếu ai không đến được thì hướng về quốc đô mà khóc. Khi cử hành nghi thức, Lưu Bang cởi hai tay áo ra để trần đôi vai rồi òa lên khóc thật to, đồng thời, ra lệnh cho toàn quân ai điếu ba ngày. Tiếp đó, ông lại phái sứ giả đi thông báo cho các chư hầu biết: "Nghĩa Đế do toàn thể thiên hạ đưa lên ngôi, và chúng ta đều xưng thần trước Nghĩa Đế. Không ngờ ông lại bị Hạng Võ lưu đầy xuống Giang Nam, rồi dùng cách mưu sát để giết chết. Đó đúng là nghịch bất đạo, tội không thể dung tha. Để báo thù cho Nghĩa Đế, tôi đã sử dụng quân đội tại Quan Trung, và huy động các tướng sĩ ở Hà Nam, Hà Đông, Hà Nội. Tất cả sẽ vượt qua sông Trường Giang, Hán Thủy để thảo phạt bọn gian nịnh. Mong các chư hầu vương sẽ cùng hợp lực đánh kẻ sát hại Nghĩa Đế!"
Lưu Bang biểu diễn trò phát tang cho người chết, nhưng kỳ thật là để hiệu triệu người sống, đối với các chư hầu có quan niệm trung quân sâu đậm đã gây nên một tác dụng đặc thù. Mọi người đều cho Lưu Bang là người trọng chính nghĩa, thảo phạt vô đạo, nên đua nhau khởi binh hưởng ứng.
Nhưng, khi Lưu Bang phái sứ giả đến Triệu để kêu gọi Trần Dư cùng đứng lên đánh Hạng Võ, thì lại gặp một rắc rối nhỏ. Trần Dư vì có mối thù với Trương Nhĩ nên đã chạy sang đầu Lưu Bang, hiện nay đang ở trong quân Hán, nên ông ta đề xuất một điều kiện: "Quân Hán giết chết Trương Nhĩ thì Triệu sẽ gửi binh giúp Hán, bằng không, sẽ không tuân theo mệnh lệnh."
Sứ giả trở về báo cáo với Lưu Bang, Lưu Bang suy nghĩ đắn đo, ông biết giữa Trần Dư và Trương Nhĩ nguyên là hai người bạn kết giao rất thân thiết chỉ vì trận đánh tại Cự Lộc, Trần Dư không cứu Trương Nhĩ nên đôi bên trở nên thù oán, về sau Hạng Võ đã phong Trương Nhĩ làm Thường Sơn Vương, còn Trần Dư chỉ được phong có ba huyện, nên mối thù giữa hai người càng sâu, và cuối cùng họ đã xua quân đánh nhau. Trương Nhĩ phải bỏ chạy sang quân Hán. Thời bấy giờ Lưu Bang sở dĩ thu nạp Trương Nhĩ là do muốn mở rộng lực lượng của mình, nhưng không ngờ chuyện đó đến ngày nay, khi kêu gọi quân Triệu phát binh thì lại gặp trở ngại.

Làm thế nào đây? Lưu Bang từ trước tới nay bao giờ cũng yêu mến nhân tài, ông tuyệt đối không bằng lòng sát hại Trương Nhĩ. Đặc biệt là hiện nay cần phải có tướng tài binh giỏi để đánh Hạng Võ, vậy nếu giết Trương Nhĩ, thì chẳng những làm cho tướng sĩ bất mãn, mà còn làm cho việc chiêu mộ nhân tài sẽ gặp nhiều khó khăn. Lưu Bang từ trước đến nay xem trọng danh dự và tiếng tăm của mình, ông phải trải qua rất nhiều khó khăn mới tranh thủ được sự ủng hộ của mọi người khắp trong nước, chả lẽ nay lại đi sát hại một hàng tướng, để các nhân tài trong thiên hạ có lòng sợ hãi đối với mình hay sao? Nhưng, Trần Dư lại tỏ ra cố chấp như thế, nếu không giết Trương Nhĩ ông ta sẽ không chịu xuất binh. Suy tới nghĩ lui, Lưu Bang cảm thấy rất khó khăn, nhất thời không thể có sự định đoạt dứt khoát được.
Lưu Bang cố moi óc suy nghĩ, chân mày nhíu lại như một vết sẹo. Lưu Bang thích uống rượu, nay gặp chuyẹn buồn, càng muốn dùng rượu để tiêu sầu. Thị nữ lập tức mang rượu và thức ăn ra, hầu hạ Lưu Bang. Lưu Bang uống từ ly này sang ly khác, bỗng ngước mặt nhìn lên và hai mắt của ông đã chạm vào hai mắt của người thị nữ. Người thị nữ tươi cười với ông, đôi gò má cũng ửng hồng. Lưu Bang híp đôi mắt nhìn thẳng vào người thị nữ một lúc lâu. Ông thấy cô gái này rất xinh đẹp, nên đã động lòng háo sắc, đưa bàn tay ra nắm lấy cổ tay của cô gái, và ôm cô ta vào lòng. Người thị nữ lúc ban đầu có vẻ sợ sệt, nhưng cô ta đã nhanh nhẹn tươi cười, vừa có vẻ e thẹn vừa ngả đầu vào ngực Lưu Bang, đêr mặc tình cho ông ta âu yếm. Lưu Bang nhìn thẳng vào gương mặt của nàng, bỗng không khỏi giật mình, vì cô gái này rất giống phu nhân của ông là Lữ Trĩ. Bấy lâu nay ông ta hết sức nhớ mong phu nhân của mình đang ở tận huyện Bái. Trước đây ông có phái Vương Lăng đi huyện Bái để đón Thái Công và Phu Nhân, nhưng bị Hạng Võ chận lại ở Dương Hạ, nên không thể rước họ được. Nay thấy cô gái này có gương mặt giống phu nhân, ông tỏ ra rất có tình cảm, cúi xuống hôn nàng một lượt và cảm thấy như mình đang hôn Lữ phu nhân. Qua một chốc, ông bỗng đẩy người thị nữ ra, lộ sắc vui mừng nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Một ý nghĩ hay lắm!
Người thị nữ hốt hoảng, tưởng đâu Lưu Bang đã say, nên vội vàng lui ra, Lưu Bang không cần biết tới nàng đi đâu, vội vàng cho gọi Trương Nhĩ đến, rồi kề tai nói nhỏ với ông ta một lúc.
Hai hôm sau, Trương Nhxi dẫn một người tới, người này cũng có gương mặt giốg Trương Nhĩ. Trương Nhĩ cho biết ông đã phái người đi vào làng quê tìm kiếm mới tìm được người này. Lưu Bang nhìn anh ta một lúc lâu, rồi vui vẻ gật đầu. Ông bí mật sai người đến nhà người đó tặng cho gia đình anh ta một số tiền bạc và đồ vật, rồi cắt lấy đầu người đó và bảo là thủ cấp của Trương Nhĩ, tức khắc đưa sang nước Triệu tặng cho Trần Dư. Trần Dư xem qua chiếc thủ cấp, cảm thấy rất hả hê, nói: "Tên bất nghĩa nhà ngươi, cuối cùng rồi cũng có ngày hôm nay!" Ông xuống lệnh đem chiếc thủ cấp đó bỏ vào đỉnh nước sôi nấu cho rục ra, rồi quay sang nói với người sứ giả của Lưu Bang phái tới:
- Hán Vương là người trọng nghĩa khí như vậy, Trần Dư tôi tất nhiên sẽ đem hết sức mình ra tương trợ. Hãy về bẩm lại với Hán Vương, cho biết quân Triệu đã chuẩn bị sẵn sàng, chờ đợi sự sai khiến của Hán vương bất cứ lúc nào để cùng nhau đi đánh Hạng Võ!

Khi người sứ giả trở về báo cáo lại lời hứa hẹn của Trần Dư cho Lưu Bang nghe, Lưu Bang hết sức vui mừng. Ông thầm khen mưu kế của mình quả là rất hay. Việc "phát tang" và việc "tráo đầu" đều là tuyệt vời cả! Ông có cảm tưởng như sự thắng lợi đã nắm trong tay nên tinh thần hết sức phấn chấn.
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét